Nhân Tình Nhân Thế (P5)

Giá trị của ý thức giáo lý
Nội lực nhạy cảm, song hành cùng nội công chạnh lòng, là hạt giống của bác ái, luôn chống lại cái vô cảm (ai chết, mặc ai) là các mầm mống của vô nhân (đạo); không những là hạt giống nội lực nhạy cảm thương dân, nội công chạnh lòng yêu nước lại vừa là đất tốt, vừa là mưa rào làm cho chí nguyện nảy nở, làm cho lý tưởng đâm chồi, làm cho bác ái ra hoa, tình thương đồng bào, đồng loại thành quả trong môi sinh đầy đủ, tràn đầy của tình cảm luân lý. Từ đây một công dân yêu nước, thương nòi, quý nhân quyền, trọng dân chủ tránh được hai hố sâu rất xấu:
1. Sự vắng mặt của đạo đức tập thể tạo ra quan hệ xã hội gian lận làm ô-uế lương tri qua tham ô, tham nhũng.
2. Sự biệt dạng của đạo lý tạo nên những cá thể không phân biệt được thiện ác nên rất sẵn sàng lấy cái tham, độc, ác, hiểm ra để diệt cái hay, đẹp, tốt, lành.
Đừng trông chờ bọn tham ô, tham nhũng, bọn buôn quyền bán chức, có tình cảm luân lý, vì não bộ của chúng chỉ hoạt náo hằng ngày qua quyền lực và lợi nhuận. Chúng có lý luận xấu để quyết định hiểm rồi hành động thâm, bất chấp hậu quả ác. Môi trường cá nhân của chúng không có bao dung, vị tha, rộng lượng; vì môi trường «hành quyền» của chúng là: lách công lý, né công pháp, tránh công tâm; chỉ vì môi trường não bộ của chúng không có các giá trị của công bằng vì tự do và bác ái. Nghiên cứu lý lịch, phân tích hồ sơ của các lãnh đạo xấu, ta thấy có không ít loại người này có mặt, có quyền trong ĐCSVN hiện nay. Một trong những vai trò tri thức của trí thức liêm chính là phải vạch mặt bọn này cho nhân tri của Việt tộc thấy rõ hiểm họa phản nhân phẩm, nghịch nhân đạo, chống nhân quyền do chúng gây ra. Làm đúng điều mà Kant luôn dặn: đồng loại là cứu cánh, chớ không phải là phương tiện. «Hành quyền tà» để «hành nghề gian», chúng chỉ thấy tư lợi trước mắt, giẫm lên các giá trị luân lý, lấy quyền lực đè lấp tử tế, sai một ly đi một dặm, nên khi chúng biết là đạo lý và luật pháp sẽ chóng chầy xử tội chúng, nên chúng sẽ «sa đà» vào con đường buôn dân, bán nước, nhất là khi công bằng, tự do xuất hiện cùng dân chủ và nhân quyền, thì chúng bỏ chạy ra «nước ngoài». Nhưng ai cũng biết: «khôn quá, hóa dại», vì trong tình hình toàn cầu hóa hiện nay, thì quan niệm «nước ngoài» giờ đã thành «nước trong» («trong» theo cả hai nghĩa: bên trong và trong suốt), nhân cách giáo lý Việt tộc chỉ cho ta biết là chúng làm sao có thể «lấy vải thưa che mắt thánh» được! Làm sao «thoát được lưới trời»! Trong cái thế giới một làng hiện nay, khi chúng đã phá hoại gia sản tổ tiên chúng, thì không có làng xóm, láng giềng nào dám cho chúng đất dung thân! Đây là một chân lý (mới, đẹp) trong đạo lý chính trị (thế giới hóa) hiện nay, để xét xử và trừng trị bọn bán nước, buôn dân. Khi xem kỹ hồ sơ và lý lịch bọn này, thì chúng ta thấy lộ ra một nội dung dù là sống chung một nước, cùng là đồng bào với nhau, nhưng bọn này tha hóa quan hệ xã hội qua quá trình khống chế rồi tước đoạt, lấy quyền để giành, lấy chức để chiếm, tất cả nằm trong cái trật tự bất bình đẳng do chúng lập ra, trong loại trật tự này không ai được ngang hàng với chúng, ở đó quyền của chúng ở trên, dân ở dưới. Quan cao-dân thấp, cơ chế đè cá nhân, trên ra lệnh-dưới tuân lệnh, nên chúng sợ công bằng và tự do như sợ «tai trời, ách đất» đánh lên hành vi trộm, cắp, cướp, giật của chúng. Chúng càng sợ hơn các dòng thác nhân quyền và các sóng thần dân chủ trong toàn cầu hóa hiện nay, tới để quét sạch các cơ chế tham quyền-cơ ngơi tham nhũng của chúng. Trong quan hệ xã hội bất công này, thì mọi công dân đều có thể là nạn nhân của các cơ chế không tôn trọng công bằng này, của chế độ không tôn trọng tự do cá nhân này, trong một bối cảnh như vậy thì ý muốn của kẻ nắm quyền chính là quyền lực của chúng trên số phận của người khác, đây rõ ràng là bi kịch hiện nay của xã hội Việt Nam, dân đen là nạn nhân của độc quyền, dân oan nạn nhân của độc đảng. Chủ thuyết kinh tế thực tế của John Stuart Mill đề nghị tiêu chuẩn đầu tiên của công lý là mang lại tối đa các điều kiện vật chất cho số đông nhất của xã hội; trong lý luận về công lý thì Rawls giải thích là chỗ đứng của mỗi cá nhân có quyền bình đẳng trong một hệ thống xã hội rộng rãi nhất cho tự do của cá nhân đó, mỗi cá nhân như nhau, có quyền được sống như nhau, đây là hợp đồng công bằng làm cơ sở cho mọi nguyên tắc công lý. Trong bối cảnh các nước văn minh nhờ dân chủ thật sự hiện nay, thì tự do song hành cùng nhân phẩm và công bằng sánh bước cùng nhân tri, nơi mà tư cách tự tôn trọng mình phải đi đôi với tư cách biết tôn trọng các người xung quanh. Arendt yêu cầu nếu làm luật để bảo vệ công bằng và công lý thì phải nghĩ tới hệ thống mà mỗi cá nhân tự bảo vệ khi có các bất công tới từ kẻ khác, cùng lúc phải có luật để bảo vệ kẻ khác khi có các bất công do ta tạo ra cho kẻ khác. Lý luận nghiêm minh về công lý cho chúng ta thấy rõ bộ mặt của kẻ cầm quyền, khi muốn lộng quyền thì nói với dân là do lý lẽ (tối mật) của chính quyền, khi đàn áp dân thì nói là vì luân lý (bí mật) của nhà nước, mà ý đồ là chỉ để bảo vệ kẻ cầm quyền, đây là bộ mặt đôi của chính quyền: làm cha thiên hạ qua giọng điệu trật tự (mơ hồ) của mình. Khi chúng ta gặp loại chính quyền này, thì chúng ta thấy tự do chúng ta bị thu lại, và ngược lại khi chúng ta hội ngộ được với công bằng, bác ái qua nhân quyền và dân chủ chúng ta thấy tự do chúng ta được đề cao và nâng lên. Trong thực tế, khi chúng ta chạm mặt loại bán nước, buôn dân chúng ta thấy đạo đức chính quyền chỉ là loại đạo đức giả, vì nó không biết tôn trọng tự do cá nhân, công bằng xã hội. Nói giọng đạo đức giả qua các nghị quyết, nhưng trong bóng tối của quyền lực thì trộm, cắp, cướp, giật của công; giả giọng luân lý trước quần chúng dân đen, tráo lời công lý trước dân oan, nhưng trong bóng đêm thì ăn trên, ngồi trốc, mà tiền của là tới từ tham nhũng, hối lộ, tham ô, cửa quyền, vậy mà gặp các nước giàu thì lại có phản xạ van, xin, trợ, viện; trong tư cách đại gia giả của chúng có nội chất của một hành vi ăn mày thiên hạ. Trong cái xung đột giữa dân chủ và chuyên quyền, thì tổ tiên Việt tộc có để lại ngữ pháp: thói sai nha, nói rõ đạo lý quần chúng luôn chống lại thói lộng quyền quan lại, để tránh cho bằng được chuyện: mới hay địa ngục ở miền trần gian (Nguyễn Du).
Nhân Tình Nhân Thế (P6)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).

Bình luận về bài viết này