Nhân Tình Nhân Thế (P1)

Trong chứng từ của các tù nhân lương tâm, bị công an «bắt nóng, bắt nguội» nhiều lần trong những năm qua các phong trào đấu tranh cho nhân quyền, cho dân chủ, cho môi trường…, mà mọi người có thể xem trên mạng, tôi thấy họ luôn tỉnh táo tươi cười, riêng tôi xúc động khi nghe họ kể là họ thông cảm cho những người công an đã bắt bớ, áp đảo, đày đọa chỉ vì họ tin là trong số người này có nhiều người mà họ có thể thông cảm, mặc dầu những công an biết là họ đang làm sai, làm những việc trái pháp luật, trái với lương tâm của chính họ! Hãy bắt đầu câu chuyện nỗi niềm giáo lý Việt tộc từ đây, trong đó có nhân tình của đồng bào mình khi đối mặt với chế độ công an trị hiện nay, mà đàn áp đã thành phản xạ của các kẻ lãnh đạo, và hiện nay đã hành xử vô cùng sai trái đối với dân đen, dân oan; tôi muốn tìm nỗi niềm giáo lý Việt tộc trong nhân thế thời này đã bị chế độ hiện nay nhào nặn hằng ngày thế nào mà con người chỉ thấy tiền, dễ mất nhân cách vì tiền, nhất là những kẻ có quyền sẵn sàng nạo tiền một cách bất chính nhất qua tham ô, tham nhũng, hối lộ, cửa quyền. Hãy bắt đầu câu chuyện bằng động từ: thông cảm trong ngữ văn, ngữ pháp tiếng Việt luôn nó mang sức thần thông của lòng nhân ái, của lòng rộng lượng, của lòng vị tha, nhưng cũng là nội công của sự tỉnh táo, bản lĩnh của sự sáng suốt, làm cho Việt tộc luôn là Việt tộc.
Giá trị của tình cảm luân lý
Mỗi cuộc đời không những chỉ có thử thách, mà còn có tiếp nhận để nắm giữ cho bằng được các giá trị của nhân phẩm được coi như hoài bão-nhân tố sinh động của cuộc sống- lấy ý nguyện để vượt thắng nghiệp chướng, vì có những kiếp người, chẳng hạn như dân oan hiện nay bị cướp đất, cướp nhà, họ đang phải sống trong tù ngục của nhân sinh, vì địa ngục điện tiền, địa ngục không đâu xa, địa ngục ở trước mắt chúng ta. Mỗi lần chúng ta nhớ về họ, chúng ta thấy chuyện dấn thân để bảo vệ họ là tất nhiên, không có phản xạ chống bất công để bảo vệ kẻ yếm thế trong nhân tình, thì chính ta đã đánh mất nhân tính, từ đó nhân lý của ta coi như đã bị ngọng, què, chột, điếc trước nhân thế. Chúng ta có nhiều cách chống bất công, cửa quyền: bao dung nhưng minh bạch như Lý Thái Tổ, hoặc nhân từ nhưng khiêm cẩn như phật hoàng Trần Nhân Tông; thậm chí cứng rắn, quyết liệt như Trần Thủ Độ để bảo vệ cơ đồ chung. Trong lúc chờ đợi dân chủ thật sự đến với Việt tộc, chúng ta mong mỏi các lãnh đạo hiện nay của ĐCSVN tìm ra được những kẻ có bản lĩnh minh chủ, có nội công minh chúa, có tầm vóc minh quân, như cha ông ta đời Lý, Trần. Còn nhiều cách nữa để chống tham ô, tham nhũng: trực tiếp tố cáo bọn gian thần như Chu Văn An, hoặc thâm trầm tiên tri vận nước như Nguyễn Bỉnh Khiêm; thậm chí trực diện trong quyết đoán như Nguyễn Trãi, về Côn Sơn để «mai danh, ẩn tích», nhưng không hề sao lãng việc đời, việc nước. Tất cả những danh nhân này điều mang đậm nét trong cuộc đời của họ: các nỗi niềm giáo lý Việt tộc.
Trong cấu trúc ngữ pháp: nỗi niềm giáo lý đã có sự mở lòng để đón nhận lòng quả cảm ngay trên thượng nguồn, sẽ làm ra chất xúc tác cho các hành động tích cực mang đến điềm lành, chuyện hay cho đồng bào, đồng loại. Nỗi niềm giáo lý còn làm nên cá tính của một dân tộc: đặc điểm của lòng yêu nước, đặc thù của lòng thương nòi, đặc tính của quyết tâm giữ quê cha đất tổ, đặc sắc của tấm lòng một con ngựa đau, cả Tầu bỏ cỏ. Hãy bắt đầu câu chuyện nhân tình, nhân thế bằng nỗi niềm giáo lý này để thấy trong văn hóa Việt tộc đã có văn minh của quyết tâm không bao giờ khuất phục trước ngoại xâm, cường quốc; có luôn cả văn hiến của lòng bất khuất giữ đất nước cho bằng được, không buông bỏ độc lập dân tộc, nắm vững và nắm chắc các giá trị nhân bản của mình. Động từ thông cảm đầu câu chuyện, bây giờ đã có chỗ dựa là chữ: lòng, như con tim không ngừng nghĩ chuyển máu tươi cho lương tri, như buồng phổi không ngừng hít thở khí lành cho nhân cách. Tấm lòng, mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn lấy làm hải đăng cho sự nghiệp nghệ thuật của mình (sống trong đời sống, cần có một tấm lòng), sống mà không có tấm lòng thì có thể coi như là không sống, vì đã mất lương tri, đã đánh mất luôn nhân cách. Như vậy, tấm lòng vừa là con ngươi cho ta thấy đường đi, nẻo về; lại vừa là đôi chân dìu dắt thân thể ta trên đường đi, nước bước để tìm về gốc, rễ, cội, nguồn của tổ tiên. Con ngươi và đôi chân của tấm lòng là tiền đề, để vào nỗi niềm giáo lý Việt tộc, trong đó con ngươi và đôi chân không có lãnh thổ riêng rẽ, không có biên giới phân chia, mà cả hai luôn mang trọn vẹn tính tương tác; luôn phối hợp nhau để lao tác ra: thể lực Việt, trí lực Việt, tâm lực Việt, cả ba tạo ra sung lực Việt, cội rễ của nỗi niềm Việt. Hiện nay, thể lực Việt -vừa là đất nước, vừa là dân tộc-đang bị đe dọa nghiêm trọng trước Tầu họa, mà Việt tộc không thấy con ngươi sáng suốt và đôi chân cương quyết của ĐCSVN đã và đang lãnh đạo số phận giống nòi này, đã và đang mơ hồ trong khiếp nhược trước Tầu tặc, đã và đang yếu đuối trong bất nhất trước ĐCSTQ-đảng cộng sản Trung Quốc mà mưu đồ bành trướng, mà mưu mánh bá quyền đã rõ.
Giá trị của nhân phẩm có chỗ dựa là giá trị của đạo lý, ta tiếp nhận và nắm giữ cho bằng được các giá trị của nhân phẩm, vì chúng làm nên cá tính và bản sắc của ta, trong đó hướng đi của đạo lý dựa trên tiếng nói của tự do, dẫn dắt mỗi công dân Việt trong mỗi thử thách, sau đó giúp ta đánh giá đúng số phận của dân tộc, qua các quan hệ mà chúng ta có với tổ tiên và tổ quốc. Từ đó, ta sống và nhìn đồng bào mình qua những bậc thang của các giá trị đạo lý, lấy đó để xét, để soát lại các kinh nghiệm công dân của ta. Triết học luân lý nhận định là các thói quen của chúng ta, luôn có một cái nền của đạo lý (con cháu ở đâu, ông bà ở đó), nền đạo lý này giúp cho thói quen của con dân nhập vào các nội chất hay, đẹp, tốt, lành tới từ cha ông (ăn trái nhớ cây, uống nước nhớ nguồn), mang cái sáng của lịch sử vào soi rọi cái chưa sáng của hiện tại. Trong giá trị của nhân phẩm, ta cũng phải thấy khác nhau giữa các nguyên tắc luân lý và tình cảm luân lý, trong đó tình cảm luân lý luôn sống động và có lúc thông minh hơn các nguyên tắc luân lý, vì tình cảm luân lý là gốc, rễ, cội, nguồn của mọi nỗi niềm giáo lý,vì tình cảm luân lý biết kết thân-nhập xác với các niềm tin thâm sâu nhất về dân tộc mà Việt tộc gọi nhau là đồng bào: những con dân ra đời cùng một bào thai, để rồi thâm nhập vào giá trị chân thật của lòng yêu nước, thương nòi, mà không cần khuôn vàng, thước ngọc, lắm lúc giáo điều của các nguyên tắc luân lý. Cái hay của các tình cảm luân lý là nó không duy lý một cách máy móc, không «dạy đời» kiểu một chiều như các văn bản về nguyên tắc luân lý; nó tìm và hiểu nhân phẩm qua các quan hệ đồng bào, để định hình tình yêu nước, thương dân của chúng ta, biết đùm bọc nhau nhưng cũng biết tha thứ cho nhau (yêu nhau chín bỏ làm mười). Nó ở những dạng rất khác nhau (yêu nhau, yêu cả đường đi, lối về), nó không chỉ là biểu hiện nội tâm của ta trước cuộc sống mà còn là định hướng của cuộc đời mỗi người (yêu nhau, cởi áo cho nhau), nơi mà cái phải sống đẹp lấy ra từ chất sống đẹp của các tình cảm luân lý. Cái phải sống đẹp không chỉ là hoài bão, ý nguyện, làm nên niềm tin và làm nên cả lý tưởng cho chất sống, mà nó còn là thước đo để cân, đo, đong, đếm mọi hậu quả của mỗi hành động của chúng ta. Trong những năm tháng tới, đất nước chúng ta sẽ bị thử thách hằng ngày, kẻ có ý thức về hậu quả trong hệ vấn đề giống nòi, dân tộc, đất nước… phải lấy thông minh của mình một cách liêm sỉ nhất ra để phán xét các thử thách đó, lấy tình yêu quê hương thật bền chắc ra để phán đoán các diễn biến trên đất nước này. Tòa án quốc tế quyết định là chuyện Philippines kiện Trung Quốc trên biển Đông là: đúng! Vì Trung Quốc không hề có một chủ quyền lịch sử nào trên biển Đông, cả thế giới yêu cầu Trung Quốc phải tôn trọng chủ quyền của các nước láng giềng, nhiều quốc gia quý Việt Nam cũng thắc mắc tại sao lãnh đạo ĐCSVN lại quá hèn, không như Philippines, đưa Trung Quốc ra tòa! Nỗi niềm giáo lý Việt tộc cũng vậy (vừa buồn, vừa chán) là : «Tại sao lãnh đạo ĐCSVN lại cúi đầu như vậy?», cha ông ta khi xưa giữ nước, khi bảo vệ bờ cõi đâu có ươn hèn như vậy! Cái đáy của sự hèn nhát là: điếm nhục! Đừng bắt Việt tộc đóng vai hèn nhát, gánh trò điếm nhục. Nhân phẩm, nhân đạo, nhân cách, nhân diện chỉ là một chuyện, có cùng một con ngươi, có cùng một đôi chân: biết nhìn thẳng nên không hèn, biết đi ngay nên không nhục!
Nhưng người ta có thể hiểu được các quyết định xấu, các hành động sai, các hậu quả tồi đã xảy đến cho dân tộc, cho đất nước bằng cách xem, xét, soát lại các sai lầm, các khuyết điểm, để hiểu tại sao lòng yêu nước thủa ban đầu khi đấu tranh giành độc lập bây giờ đã biến chất qua tham quyền, tham ô; cái hy sinh cho kháng chiến thủa nọ chóng chầy biến thành cái bất trung, bất tín, lời hứa cách mạng thủa xưa trước dân tộc giờ đã tìm đường rẽ ngang qua con đường bội tín: phản bội lòng tin của dân tộc! Cứu cánh không thể biện minh cho phương tiện, nếu ta chứng minh được là sự thật phải đầy đủ, toàn bộ, trọn vẹn (nửa trái táo vẫn là còn là táo, nhưng nửa sự thật không phải là sự thật) và không có phương tiện nào là không phán xét được, nếu cứu cánh vẫn chưa rõ, thiếu sót, què cụt, khi còn nhiều điều đáng bị ngờ vực, cái sắc xuất không phải là cái chắc bẩm, con tính tư lợi của cá nhân không phải là các giá trị phổ quát cho cộng đồng. Các thủ đoạn cướp đất, cướp nhà mà dân oan là nạn nhân, đều đến từ cái ích kỷ trục lợi của những kẻ cầm quyền, nó bắt ta khi phân tích tình hình đất nước, khi đi sâu vào nỗi niềm giáo lý Việt tộc là phải làm hai chuyện cùng lúc: chuyện thứ nhất là phải xem lại các giá trị của luân lý, của đạo lý trên đất nước hiện nay; chuyện thứ hai, là phải luôn nghiệm lại các kiến thức của mỗi công dân Việt trước các thử thách mới của dân tộc, trước các thăng trầm đang đe dọa các giá trị của luân lý, của đạo lý. Các giá trị đạo đức luôn dựa trên cách thuyết minh của nó, chắc trong lý luận, vững trong lập luận, tạo ra cơ may cho chính nó, nếu nó muốn sống sót lâu dài và bền bỉ trong nhân tri; cũng như lẽ phải, phải luôn được kiểm chứng hằng ngày (đường mòn nhân nghĩa không mòn).
Chúng ta cũng đừng quên là có những giá trị giả được áp đặt trong vài bối cảnh được dàn dựng bởi những kẻ có chủ mưu xấu, như cái trò «chữ tốt, chữ vàng» của đám lãnh đạo Tầu khi «vuốt đầu, rờ gáy, xoa lưng» khi ra giọng «đàn anh» trước các lãnh đạo ĐCSVN, nhưng khi bị đối diện với các hệ thống kiểm chứng phổ quát hằng ngày, và với các chứng cớ bằng chứng từ tạo ra chính kiến, thì các giá trị giả này sẽ tự sụp đổ (cháy nhà lòi mặt chuột). Khi nghiên cứu về lịch sử Trung Quốc, trước đó là Hán triều, giờ đây là Tàu tặc, thì ai cũng rõ là chúng: «cướp trước rồi hòa sau», như vậy chúng không những «vừa ăn cướp, vừa la làng», mà còn «vừa giật, vừa khuyên»; chúng thấp, tồi, dở, tục mà chúng cứ tưởng là khôn, khéo, lanh, ngoa. Đây là những vết chàm trong quan hệ láng giếng giữa Tầu và ta, Tầu của Khổng, Lão, Mạnh, Trang có phong cách đại quốc, nhưng trên biển Đông hiện nay, nhất là đối với Việt Nam, Tầu của đảng cộng sản Trung Quốc chỉ là bọn trộm, cắp, cướp, giật! Không rõ chuyện này thì không đối đầu với Tầu được. Chúng ta dặn con cháu phải nghiêm cẩn trước cái khôn, khéo, lanh, ngoa thật ra chỉ là thấp, tồi, dở, tục của Tầu! Vì sao? Vì cái vô minh, vô tri, vô giác đã nhập vào não bộ của thế hệ trẻ Việt hiện nay, sau bao năm làm nạn nhân cho một chính sách thiếu văn hóa Việt, vắng văn minh Việt, mất văn hiến Việt, lại còn bị thay thế vào bằng các tiêu thụ dễ dãi phim ảnh, báo chí, truyền hình Tầu… với tài tử, diễn viên, ca sĩ Tầu, và lắm thanh thiếu niên Việt xem các nhân vật Tầu này là thần tượng. Hậu quả là hè năm 2016, sau khi Tầu bị tòa án quốc tế chỉ mặt, gọi tên là kẻ trộm, cắp, cướp, giật trên biển Đông, thì lãnh đạo Tầu đã giựt dây hơn 100 tài tử, diễn viên, ca sĩ Tầu để chống lại quyết nghị của tòa án này, vậy mà có các thanh thiếu niên Việt «hùa theo» các đám tài tử tồi, diễn viên tục, ca sĩ bồi của Tầu này. Hậu quả, thiếu văn hóa Việt, vắng văn minh Việt, mất văn hiến Việt, dẫn tới mù quáng trước mọi nguy cơ của Việt tộc, trước mọi nguy nan của tổ quốc trong đám thanh thiếu niên Việt này, về hiện tượng này các lãnh đạo ĐCSVN phải chịu trách nhiệm trước tòa án lương tri Việt tộc!
Các bất công trong xã hội hiện nay tới từ bất tài, bất lực của lãnh đạo, luôn được chế độ giải thích qua các cớ (lực bất tòng tâm), nhưng cớ không phải là sự thật, càng không phải là chân lý, hoàn toàn không có chỗ dựa trên lẽ phải. Vì ăn ở có nhân mười phần không khó, khi kẻ đưa ra các cớ này lại nắm quá nhiều quyền và vơ vét quá nhiều tiền; còn nạn nhân của họ khi nghe, khi nhận các cớ này thì đã trắng tay vì đã thành dân đen, trắng mắt vì đã thành dân oan. Cái cớ mang theo cái xảo để làm nên cái lừa, mang cái gian để làm ra cái lận (đánh lận con đen), nó luôn dựa trên một tình huống riêng của nó, nó «chế» ra cớ, để cho thủ đoạn được bày biện một cách có nội kết, để tác giả gian của một ý đồ xấu được phát biểu ý kiến của họ, qua biện luận nhưng thật ra là ngụy biện, qua quyết định nhưng thật ra là gian lận, những kẻ này tự gạt đi mọi tình cảm luân lý, để họ tránh bị xét nghiệm bởi dân tộc trước khi họ hành động. Mánh khoé, thủ đoạn, tà kiến, ngụy biện…chính là bản chất của kẻ gian, sẽ bị lột mặt nạ, lộ chân tướng khi con tính tư lợi của họ không thuyết phục được các giá trị luân lý. Vì con người luôn thấy được và nhận ra cái đúng (le juste), để hành xử theo cái tốt (le bon), để tìm ra cái hay (le bien), mà không cần chờ đợi cái hợp pháp (le légal) của mỗi hành động. Như vậy quá trình tiến hành của các tình cảm luân lý tạo nên các nỗi niềm giáo lý, luôn nằm trong quỹ đạo liêm chính của mỗi người yêu nước, vì quỹ đạo này thoát được mọi kìm kẹp của các bất công, tới từ lạm quyền.
Nhân Tình Nhân Thế (P2)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).

Bình luận về bài viết này