Nhân đạo phán ác, nhân từ xét tà (P8)

Qua điều tra của xã hội học thanh niên về nhận thức chính trị trước cái ác, thâm, độc, hiểm tới từ các con tính của Trung Quốc đang hủy diệt dần mòn Việt tộc; trong cái tà, gian, xảo, lừa tới từ tham ô, hối lộ của số đông lãnh đạo ĐCSVN, làm sinh sôi nẩy nở cái dở, tồi, xấu, tệ trong cơ chế và định chế của chế độ hiện nay, trường hợp của Lâm Ngân Mai rất đáng chú ý. Khi cá thể này dùng truyền thông xã hội để xác nhận là mình cất tiếng vì của dân đen, vì dân oan, cô đã thành chủ thể của tự do, trực diện với chính quyền để phê phán các bất công trong xã hội tới từ lãnh đạo của ĐCSVN, vừa bất tài, vừa tham nhũng, vừa độc ác. Cô đã nhìn thẳng vào mặt cái ác, và rất ý thức là mình có thể bị sát hại trong một chế độ công an trị, tự cho phép mình thành sát nhân và dẫm lên luật pháp. Cá thể có cá tính, cô lột luôn mặt nạ bọn trộm xảo-đánh lận con đen- qua các hội đoàn từ thiện, đây là một loại khác của tà, gian, xảo, lừa, chúng nằm ngoài chính quyền nhưng được bao che, nhờ có móc ngoặc với bọn ma đạo trong chính quyền. Các tin tức trong cuộc đấu tranh của cô đã trở thành chứng từ trước pháp luật, các hiểu biết của cô về tự do cũng là các hiểu biết về công lý và công tâm. Nội dung các chủ đề của cô là thực tế của dân đen, là thực trạng của dân oan; các nhà lãnh đạo nếu có thông minh, tỉnh táo trong sáng suốt, sẽ nhận ra trong tiếng nói của cô là cả một môi trường tư duy có lý luận, có lập luận xứng đáng đại diện cho các thanh niên có ý thức trước vận mệnh của đất nước đang lâm nguy.
Một hiện tượng khác trong nhận thức chính trị bằng chính tri qua truyền thông xã hội thuộc giới thanh niên Việt Nam tại hải ngoại rất thông minh của chủ thể, với kỹ năng của độc thoại hài của Trang Lê, khi đòi hỏi công bằng và công lý được biến thành kịch bản, theo định hướng của hài kịch với nội dung luôn bám sát các diễn biến về bất công đang gieo lên đầu dân đen. Trong đó bản chất không «trung với nước, hiếu với dân», mà ngược lại là «hèn với giặc, ác với dân» của ĐCSVN bị vạch mặt bằng câu chữ bình dân của dân oan. Hãy vượt qua cái mắng chửi trong giận dữ của Trang Lê để thấy nội dung thông minh của các độc thoại hài của cô, chuyển chuyện ác thành chuyện hài, đây là thiên tính của dân gian, mà cũng là thiên năng của nghệ sĩ trong lịch sử làm người, mà xã hội học nghệ thuật sân khấu nghiên cứu rất kỹ lưỡng trong các nước dày văn minh, quý dân chủ, yêu nhân quyền. Nhưng độc thoại hài của Trang Lê có sắc thái riêng, mang đặc điểm của nhân sinh phải đối đầu với cái ác, mang đặc thù của nhân tính phải đương đầu với cái gian, mang đặc tính của nhân đạo phải chậm đầu với cái tà. Loại hài chọc ác này phân tích cái ác không nhượng bộ, loại hài khích tà này giải mã cái tà không nương tay, mà cũng chẳng cần qua lý thuyết, trực tiếp qua trực diện truyền thông, nó thể hiện sự thông minh mới của các chủ thể có ý thức về trách nhiệm, về bổn phận của mình trước cái ác, cái tà. Dùng cái cười để làm ngọn lửa châm vào ý thức không thức của số đông đang ngủ, là ánh sáng rọi vào tâm thức của số nhiều không tỉnh mà đang gật. Hiểu biết tình hình và thời sự, cộng với sức phân tích sắc nhọn qua ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp của dân đen giờ đã thành dân oan, trước các áp bức đầy thú tính của các lực lượng công an bị dân gọi tên là «chó xanh», các lực lượng cảnh sát mà dân gọi là «chó vàng», đều nói lên hiện trạng đầy bi kịch trong đời sống hằng ngày tại Việt Nam. «chó xanh» thì «đánh, đập, nhốt, giết» dân, còn «chó vàng» thì «cướp, lột, bóc, hốt» của dân trên đường lộ; ở đây cái ác của kẻ cầm quyền được cập nhật hóa, phổ thông hoá, trắng trợn hóa qua các lực lượng công an và cảnh sát trong cách đối xử với dân đen, đây là định nghĩa nổi của cái ác. Trang Lê sống tại Mỹ, nhưng sinh ra và lớn lên trong bất công và áp bức của chế độ toàn trị của ĐCSVN, nên cô giải luận các chứng cớ, lý luận các chứng từ, lập luận cho các nạn nhân rất đúng, khi thấy họ sống hằng ngày với bao mất mát trên chính quê hương của họ. Từ biển đảo tới ô nhiễm môi trường, từ chuyện chính quyền cướp đất tới chuyện công an, cảnh sát làm giàu trên mồ hôi, nước mắt của đồng bào của cô. Cô đóng nhiều vai: bà ngoại, bán chè, công dân… với ngôn ngữ thẳng thừng khi trực diện với các ác, nhìn thẳng vào cái tà đang ám dân đen ngày càng đen, làm đời sống dân oan ngày càng tối hơn. Cái bi kịch của dân tộc tưởng không thể thành hài kịch được, nhưng qua Trang Lê, nếu biết dùng hài kịch để hiểu đúng hơn, thấu sâu hơn, cảm cao hơn, thương rộng hơn, thì loại độc thoại hài này rất thông minh. Vì sao? Vì nó «nhọn khi nhắm độc tài», và nó «sắc khi chặn bất công», nếu sắc nhọn để lột mặt nạ cái ác, thì mọi công dân nên sắc nhọn, theo cách của cô hay chọn cách khác tùy tự do của mỗi người, vì chúng ta có rất nhiều cách để loại cái ác, gạt cái tà ra khỏi nhân sinh.
Các nữ tù nhân lương tâm -các đứa con tin yêu của Việt tộc- qua hành động của chính các chị, các bạn đã làm sáng lên bao chính nghĩa của nhân tính, tôi nhớ rõ câu tuyên bố mà cũng là lời tâm sự của nữ triết gia Arendt: «Je revendique le devoir de la désobéissance civile contre la banalité du mal, mon metier est la théorie politique, quand les lecteurs comprennent ma théorie c’est une grande satisfaction de quelqu’un qui aime son métier», Tôi đòi hỏi cái quyền không tuân lệnh luật pháp của kẻ ác là để chống lại chuyện bình thường hóa cái ác của chúng, nghề của tôi là nghề làm lý thuyết cho chính trị, khi các bạn đọc hiểu các lý thuyết này, tôi có một nỗi vui lớn của kẻ yêu nghề. Gốc Do Thái, Arendt thoát chết trong bối cảnh diệt chủng của Đức quốc xã đã tàn sát đồng bào của bà, trong khi người yêu của bà là nhà triết học Heideggers, gốc Đức đã im hơi, vắng tiếng trước bọn sát nhân thế chiến này. Chính cái đau khổ của một dân tộc bị thảm sát, trước cái bội bạc thấp tồi của người yêu, đã làm nên động cơ giúp bà làm được tầm vóc triết học chính trị của bà. Tôi cũng không quên một nữ chính trị gia lỗi lạc của Pháp quốc, bà Veil, cũng thoát chết sau nhiều năm tù đày của Đức quốc xã trong đệ nhị thế chiến, các bạn biết bà định nghĩa nhà tù trong một xã hội nhân đạo và văn minh để chống lại cái ác là gì không: «la prison est lieu qu’on doit protéger la dignité humaine, un lieu pour apprendre, ce n’est pas un lieu pour punir”, nhà tù là nơi phải bảo vệ nhân phẩm, nơi mà con người vẫn học được, không phải là nơi để trừng phạt. Như vậy, nhà tù nào đã trừng phạt dã man các chị, đã trừng trị các bạn bằng đòn thù, thì nó chắc chắn là nhà tù này là của kẻ ác, không những không văn minh mà còn rất man rợ. Bà Veil cũng là bộ trưởng bộ y tế đã ban hành bộ luật lẫy lừng của Pháp năm 1975 với quyền phụ nữ được ngừa thai và ngừng thai, trước bao tấn công hồ đồ, vô minh của đám nam giới trong các đảng phải bảo thủ và cực đoan. Cuộc tranh đấu của nữ giới vì bình đẳng vẫn còn tiếp diễn hằng ngày, ngay trên cả các châu lục được xem là văn minh, tôi cũng muốn tâm sự với các chị, các bạn tư tưởng mới của nữ triết gia Badinter vạch mặt bọn ác, kẻ tà là bắt phụ nữ chỉ được làm mẹ, rồi khung họ trong gia đình, để làm suy kiệt sinh lực của phụ nữ trong trách nhiệm và bổn phận suốt ngày phải lo cho con cái, bà khẳng định: «On peut être une femme sans être une mère, les femmes ont le droit de choisir qu’elles veulent être mère ou non, et personne n’a le droit de toucher à ce droit !», phụ nữ vẫn là phụ nữ dù họ không làm mẹ, đây là quyền chọn lựa của họ, không ai được đụng vào quyền này ! Bà chính là người bạn đời với bộ trưởng bộ tư pháp Badinter, suốt đời hỗ trợ người bạn đời của bà trên con đường nhân lý : xoá bỏ tội tử hình trong Hiến pháp và luật pháp của Pháp quốc.
Con đường chiến đấu của các chị, các bạn vì quê hương và dân tộc phải làm rõ lên quyền phụ nữ trên đất nước chúng ta và vì các thế hệ sau, đây là nhân bản làm nên nhân nghĩa của các chị, các bạn, tôi đã thấy rõ nhân phẩm hiện nay của các chị, các bạn trong nhân tri của Việt tộc thương yêu. Cái can đảm thông minh của nam giới là phải biết cảm phục và trân quý các phụ nữ Việt đã đại diện xứng đáng cho nhân phẩm Việt, trực diện khi không nhượng bộ cái ác, cái tà. Trên có trời, dưới có đất, các nữ tù nhân lương tâm này có mặt ở mọi nơi với dân đen, dân oan; những ngày tháng mà các chị, các bạn bị cầm tù, giam cầm bởi các kẻ ác, bọn tà, tôi không nghĩ những năm tháng đó của các chị, các bạn là thụ động, vì cơ thể bị kèm kẹp bởi gông cùm, mà đó là những năm tháng có cái chất thiêng của nó, đó là những lúc mà tôi lập đi lập lại trong tâm tư mình câu hát của người nhạc sĩ thân thương của chúng ta, Trịnh Công Sơn: «Mẹ Việt nằm… đợi giờ sông núi thiêng!»
Nhân nguyện dậy!
Các bạn trẻ thân quý, khi các bạn xem trên internet các cuộc biểu tình gần đây trên đất nước, các bạn sẽ thấy tập thể thương dân, yêu nước lúc xuống đường, họ có âm thanh, có giai điệu của họ, đó là lúc họ đang hát bài “Dậy mà đi hỡi đồng bào ơi”… Dậy mà đi hỡi đồng bào ơi/ Ai chiến thắng không hề chiến bại / Ai nên khôn không dại một lần… Bao nhiêu năm qua dân ta sống không nhà / Bao nhiêu năm qua dân ta chết xa nhà…”. Khi các đồng nghiệp trong ngành tư vấn, truyền thông, báo chí, ấn bản, nghiên cứu của tôi tại Âu Châu hỏi tôi: “Đồng bào của bạn đang hát gì vậy?”; cũng như khi các sinh viên Âu Châu trong các đại học cũng hỏi tôi: “Dân chúng nước của thầy họ hát gì vậy?”, tôi chỉ trả lời gãy gọn là khi: “Họ tranh đấu thì họ đang hát chữ nhân của họ!”. Nhân phẩm làm nên nhân cách, nhân trí làm ra nhân tri, nhân đạo chế tác ra nhân nghĩa, nhân tính bảo vệ nhân sinh…. Nhưng chúng ta là người Việt Nam, tôi muốn tâm sự với các bạn rõ hơn, đó là tiếng hát của những người bị áp bức đó các bạn! Đó là tiếng của dân đen, dân oan đó các bạn! Các bạn trẻ thân quý -những đứa con tin yêu của Việt tộc- các bạn có biết không trong cuộc nội chiến Bắc-Nam vừa qua, giữa thế kỷ thứ hai mươi, mỗi lần bài hát này được hát lên trên đường phố miền Nam, đồng bào mình vừa hát vừa khóc trong các cuộc biểu tình; thế là chỉ cần chờ vài tuần, vài tháng là chế độ tà đổ, chính quyền ác sụp. Chuyện đổi đời là có thật các bạn à! Chuyện này có thể nghiệm được, cái gì chúng ta coi là thiêng, thì phải nghiệm cho bằng được, nghiệm đúng thì ta mới tin, tin vào cái nhân sẽ tới để dẹp tan cái ác, cái thiện tới để quét sạch cái tà. Dậy mà đi hỡi đồng bào ơi….
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).

 

 

Bình luận về bài viết này