Nhân đạo phán ác, nhân từ xét tà (P1)

Nhân đạo là con đường của nhân tính, được khai sáng bởi nhân trí, dìu dắt bởi nhân tâm, rộng thoáng bởi nhân nghĩa, luôn đi về hướng của nhân tri để bảo vệ nhân phẩm; còn cái ác là dùng cái độc để chiếm đoạt, lấy cái thâm để giành giựt, cái hiểm để truy diệt cái thiện, chỉ để thắng, nó đã vượt mặt cái xấu, tồi, tệ, dở, và nó bất chấp lỗi, vì nó đã đi vào con đường của tội, Việt tộc gọi tên nó là: tội ác. Nhân từ là quỹ đạo của vị tha, là trạm ghé của rộng lượng, là thượng lộ của khoan hồng, là chân trời của tình thương, lấy cái bi để trên lưng cái gian, lấy cái từ để trên vai cái tà, vì cái tà chỉ biết biến cái ý muốn ích kỷ thành ra cái ý đồ tham lam, lấy con tính bất chính để phục vụ cho tư lợi, lấy cái bóng tối để lấp liếm cái liêm chính, lấy cái nhá nhem để trùm phủ cái chính đại. Thống nhất về ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp tạo trí lực cho lý luận để lập luận khi lấy đạo đức làm gốc, rễ, cội, nguồn cho mọi sinh hoạt từ xã hội qua kinh tế, từ giáo dục qua văn hóa, từ chính trị qua định chế… đây là chuyện không một đảng phái nào tránh né được, không một nhóm quyền lợi riêng nào luồn lách được, không một chế độ nào gạt bỏ được.
Trong Tam giáo đồng nguyên (Khổng, Lão, Phật) mà Việt Nam đã chia nôi văn hóa, văn minh, văn hiến với Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, chúng ta phải nhận diện sâu, rộng cái khác biệt giữa ba-nhân-đạo này để thấy lúc nào cái ta ở trong cái chung cùng với láng giềng; và lúc nào thì cái ta có cái riêng của ta. Sớm nhất về niên đại là Phật giáo, trong đó lý luận của từ, bi, hỷ, xả dạy ta: hiểu được thì thương được, mà thương được thì tha thứ được, như vậy nhân đạo là năng lực của nhân tính, không những biết tha lỗi mà còn đủ sức để tha tội. Trong Khổng giáo, luận điểm của Không Tử thì ngược lại: nếu lấy ân để trả cho oán, thì lấy gì trả cho ân? Nếu lấy tình thương để “trả nợ” cho tội lỗi, thì lấy gì “trả lại vốn” cho tình thương này, cho nên cái sáng suốt của đạo lý phải giữ được cái phán xét công minh, xét xử công tâm, quyết đoán có công lý, pháp luật nghiêm minh phải đứng cạnh để trợ lực cho vị tha. Trong Lão giáo, quy luật lưỡng nguyên giúp nhân tính nhận xét được trong một tổng thể khi khai phá được cái thuận, sẽ chóng chầy khám phá ra được cái ngược, thấy dương thì biết sẽ có âm, vượt qua bóng tối thì ánh sáng sẽ tới, ác tà sẽ bị lột mặt nạ bằng đối trọng của nó là: nhân lý. Qua kinh nghiệm đúc kết của tổ tiên Việt tộc mà đạo thờ ông bà kết nối với đạo thờ các công thần đã giữ vững được bờ cõi, biên cương, thì Việt Nam có lối đi riêng, lối đi này đa dạng, phong phú, sáng tạo. Trong đạo lý của Việt tộc, sự nghiệp Cư Trần, lạc đạo của Phật Hoàng Trần Nhân Tông dạy ta giữ tâm yên trước mọi biến loạn, mọi thăng trầm, mọi thử thách qua công thức “đối cảnh vô tâm”, giữ tĩnh tâm để nhìn rõ ngoại giới, luôn tỉnh táo, luôn sáng suốt để phán đúng, xét trúng. Trước hiện tượng hung tàn của cường bạo, công thức của Nguyễn Trãi thì khác, lấy nhân nghĩa làm nhân lý phải có chỗ đứng trung tâm: “lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, lấy trí nhân thay cường bạo”. Trước biến thiên của “vật đổi sao dời”, chọn lựa của Nguyễn Du vừa có nhân tâm cao để làm chỗ dựa cho nhân tính rộng: “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”, tài phát tiết ra ngoài, nhờ tâm làm trụ, nền, móng, cột bên trong, tâm là tài của tài, đưa tài ra ngoài để cho nhân sinh thấy cái hậu đài đầy hùng lực bên trong là tâm. Hãy lấy các vốn liếng văn hóa, các từng trải văn minh, các thông minh văn hiến vừa của Tam giáo đồng nguyên (Khổng, Lão, Phật), vừa của tổ tiên Việt tộc ra để phán cái ác, xử cái tà đang xảy ra trên đất nước Việt Nam, đang gây bao ung thư đạo lý và luân lý trong lòng dân tộc chúng ta hiện nay. Về phương pháp luận trong phân tích cũng như trong giải thích, trong lý luận cũng như trong lập luận, tôi xin đề nghị phối hợp sử học với triết học để nhận rõ quá trình từ kinh nghiệm của con người giờ đã biến thành nhân lý của nhân loại, phối hợp dân tộc học với xã hội học để nhận diện rõ vai trò của văn hóa dân tộc trong các sinh hoạt của xã hội, nhất là chính trị học với đạo đức học để thấy dũng lực của đạo lý, hùng lực của luân lý luôn là khuôn thước để đo, tra, nghiệm, xét cái lạm quyền trong chính trị. Từ đây chúng ta sẽ lập ra ba mức độ giải luận khác nhau về hệ lụy tiêu cực chung quanh cái tà và cái ác: mức thấp nhất là cái xấu để làm ra lỗi; mức tiêu cực hơn là cái tà – sắp hoặc đang bước – từ lỗi qua tội; và cái ác thì đã đi vào con đường của tội. Lỗi xấu và tội ác: hai thái cực, lỗi thì có thể tha thứ được, còn tội thì phải phân xử cho công minh, bằng công lý, có công tâm, và khi phán quyết qua pháp lý và pháp luật và xử là: không thể tha thứ được! Thì nhân lý phải kết luận là: không thể chấp nhận được! Và nhân tri phải quyết đoán là: đừng để cái ác xuất hiện nữa!
Nhân đạo phán ác, nhân từ xét tà (P2)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).

 

 

Bình luận về bài viết này