Nhân tri nâng chính tri
Đại hội ĐCSVN đã xong, dự báo một tin buồn lớn cho Việt tộc là sẽ không có thay đổi, thay đổi theo nghĩa là thăng hoa về hướng hay, đẹp, tốt, lành, theo nghĩa thay đời đổi kiếp của hướng đi lên, để làm chủ vận mệnh của mình, làm chủ trong phát triển, làm chủ để bảo trọng nhân tri của mình. Cái mãn cuộc trong phân công, tức là cái kết cuộc trong giành quyền và đoạt chức của đại hội ĐCSVN, vậy là cái “chia chác” coi như tạm xong của những nhóm có lợi ích riêng, tạo ra cái buồn suy não vì: sinh mệnh của Việt tộc vẫn thấp hơn các tư lợi của các bè nhóm này. Ở đây, người viết bài này, phải giữ lòng tôn kính không những đối với các người đã hy sinh để thống nhất đất nước và đã nhận thức cái sai lầm khi chọn cộng sản chủ nghĩa làm ý thức hệ, và người viết bài này, cũng phải trân quý luôn các đảng viên ĐCSVN hiện nay vẫn liêm chính yêu nước, nhưng không đủ lực để làm thay đổi chính tri của các lãnh đạo đã và đang nắm quyền lực trong tay. Nhưng các lãnh đạo tối cao hiện nay của ĐCSVN phải hiểu là không có cái liêm chính của chính tri thì đừng mong có cái chính đại của chính tâm. Phải biết tâm nguyện bài học của tổ tiên Việt tộc, đúc kết chỉ trong bốn chữ: ăn ở có hậu, mà minh triết của chính tri nói rõ trong câu: hãy để giành củi những ngày mưa! Ngày 11/4, World Bank – Ngân Hàng Thế Giới – đã nghiêm báo với chính phủ Việt Nam là các tác động tiêu cực vẫn đe dọa sinh hoạt kinh tế hiện nay, họ không tin là triển vọng tăng trưởng 2016 của Việt Nam sẽ vượt mức 6,5% như chính các lãnh đạo đã đưa ra, chỉ vì thâm hụt tài khóa của Việt Nam đã diễn ra ở mức cao trong thời gian đã quá dài, trong đó tình trạng nợ công luôn vụt tăng nhanh, cùng với nghịch lý của dự trữ ngoại tệ thấp và luôn theo xu thế giảm. Ngoài nợ công luôn tăng, còn ẩn giấu một ung thư khác trong tài chính là nợ xấu của các ngân hàng chưa hề được mạnh mẽ cải thiện, đi đôi với một ung thư khác trong kinh tế là doanh nghiệp nhà nước nhiều về định lượng và kém về chất lượng; cùng lúc mang theo một hoạn bệnh khác nữa trong doanh nghiệp tư nhân, có nơi phải ngừng hoạt động vì không có xung lực trong cạnh tranh, có nơi lại đi bán cho các công ty khác qua thương vụ mua lại sáp nhập. Trong khi đó thì sức lực nền kinh tế hiện nay chỉ tới từ khu vực đầu tư nước ngoài, cái bất ổn này có thể là động cơ của các biến loạn sắp tới. Cùng lúc ASEAN đang cho lộ hình xuất dạng Cộng Đồng Kinh Tế của mình với tự do cạnh tranh, và hàng hóa của các nước ASEAN láng giềng chung quanh Việt Nam sẽ tràn lan hơn hiện nay, và cuộc đổ bộ của các doanh nghiệp của Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines… đã bắt đầu rồi từ vài năm qua, khi họ sớm đầu tư vào Việt Nam để chiếm ưu thế thị trường của Việt Nam, nơi mà các doanh nghiệp trong nước còn òi ọt, nơi mà chính sách của nhà nước vẫn «nhắm mắt» trợ lực cho đầu tư nước ngoài mà các tập đoàn của Trung Quốc vẫn đa số, và ngược lại quốc sách kinh tế vắng bóng để tạo ra một xung lực cho các doanh nghiệp tư nhân quốc nội. Cái luận điệu được sử dụng xung quanh đại hội XII của ĐCSVN vừa qua là: “doanh nhân yêu cầu chính quyền giữ trật tự xã hội tốt để doanh nghiệp yên trí làm ăn, tránh trường hợp hỗn loạn “dân chủ” kiểu Thái Lan vừa qua”, đây chỉ là trò lén lút bịp bợm, sự thật là kinh tế và đầu tư tại Thái Lan vẫn ổn định, chớ không bất ổn như Việt Nam hiện nay. Du lịch tại Thái Lan vẫn lên, trong khi du lịch Việt Nam đã xuống; hàng hóa của Thái Lan tại Việt Nam ngày càng nhiều, ngày càng đa dạng, trong khi hàng hóa của Việt Nam tại Thái Lan có chỗ đứng rất què cụt. Cũng chính bọn lạm dụng luận điệu này cũng đưa ra một luận điệu khác là: “muốn làm công nghiệp, du lịch, kinh tế thì phải chấp nhận ô nhiễm môi trường”; nhưng trong thực tế thì các nước để ô nhiễm môi trường tràn lan thì chỉ thấy công nghiệp, du lịch, kinh tế đi xuống… xuống vực! Ngược lại các quốc gia biết bảo vệ môi trường khi làm công nghiệp, du lịch, kinh tế thì họ đi lên, hội nhập quốc tế của họ vững, chính tri của họ trong chính trường toàn cầu hóa ở thế cao; các báo cáo quốc tế minh chứng bằng các số liệu rất rõ về chuyện này. Chúng ta đừng để bọn có chính trị chống dân chủ – hủy môi trường lãnh đạo chúng ta, vì chúng không có chính tri, nên chóng chày chúng sẽ tìm cách tiêu diệt nhân tri của chúng ta.
Khuyến cáo của Ngân Hàng Thế Giới có chính lý, vì họ yêu cầu các lãnh đạo ĐCSVN trở lại với nhân tri để tạo nội lực cho khu vực doanh nghiệp quốc gia, để làm ra xung lực trong hội nhập quốc tế, tạo nên sinh lực khi thi hành các hiệp định mà Việt Nam đã ký trên chính trường quốc tế. Ngoại lai hóa kinh tế Việt Nam như hiện nay là phản nhân tri, tức là vô tri trước các biến động sắp tới của toàn cầu hóa. Di sản kinh tế Việt Nam kể từ ngày đất nước thống nhất 1975, là nợ công luôn đi đôi với thâm hụt ngân sách, với những thất thoát lớn của một loạt tập đoàn kinh tế nhà nước mà tham nhũng là nguyên nhân chính, vẫn chưa bị đẩy lùi, vẫn tràn ngập. Đọc kỹ hơn thông điệp của Ngân Hàng Thế Giới đối với chính quyền Việt Nam: nếu không cải cách thể chế thì Việt Nam sẽ không thể phát triển được, không thể đạt được mục tiêu là năm 2020 để trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đất nước chúng ta đang đứng trước ba hiểm họa: nợ công trùm phủ các dự phóng về phát triển; nợ xấu làm ung nhọt hệ thống ngân hàng; đi cùng với cái thiếu hơi, ít sức trong quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Ba hiểm họa đang bị biến thành nhiều trọng bệnh khác do tham ô, hối lộ có mặt trong mọi định chế và cơ chế. Nhân tri trong xã hội Việt Nam hiện nay để lộ rất rõ 5 khủng hoảng niềm tin vừa to lớn, vừa sâu đậm trước khả năng lãnh đạo của ĐCSVN, vì ĐCSVN không có năm nội dung chính tri. Không có chính đạo khi vừa để Trung Quốc chiếm đảo, vừa đưa các tập đoàn của Trung Quốc vào làm thâm thủng kinh tế Việt Nam. Không có chính nghĩa khi không vạch mặt, chỉ tên chính Trung Quốc là kẻ thù đang cướp nước chúng ta, lại vừa lừa bịp dân tình khi coi kẻ thù này là láng giềng tốt với luận điệu lừa bịp “Bốn tốt”, “Mười sáu chữ vàng”. Không có chính lý khi không có chương trình quyết liệt để diệt tận gốc tham nhũng, hối lộ, đang gây bao ung thư cho kinh tế, cho xã hội, mà ĐCSVN vẫn là nơi làm chuyện “cướp ngày là quan”, trực tiếp hoặc gián tiếp tha hóa nhân tri. Không có chính tâm khi không thấy rõ quyền lợi của đất nước trước hiểm họa ngoại xâm, không nhận lỗi trước cái sai lầm trầm trọng trong tổ chức và quản lý kinh tế, văn hóa, giáo dục… mà lỗi hiện nay đang đi vào lộ trình của tội. Không có chính pháp, vì lỗi và tội hiện nay không hề được pháp luật xét xử công minh, qua công bằng trước công lý; bọn xé luật, né luật, lách luật vẫn ngang nhiên vơ vét của cải dân tộc. 5 khủng hoảng niềm tin này tới từ chuyện vắng bóng năm nội dung chính tri, đây là lịch sử cận đại đau buồn của đất nước từ khi có ĐCSVN, 1930, mà hậu quả được thấy ngay từ 1975, ngày càng lộ rõ nội chất trong thế kỷ XXI này, với thái độ vừa ươn hèn, vừa lừa lọc của các lãnh đạo trước nguy cơ ngoại xâm Trung Quốc. Có chức phải có đức, liêm sỉ của chức là biết nhận lỗi, lương tri của đức là tránh rơi vào tội, muốn gỡ lỗi thì phải biết hối – lấy nhân lý bồi đắp chính tri, muốn không rơi vào tội thì phải biết cải – lấy nhân nghĩa cải hóa chính tri; vì hối cải đưa chính tri vào con đường danh chính ngôn thuận với nhân tri. Hãy đọc lại các tuyên bố của tân Chủ Tịch Nước Trần Đại Quang, sau khi nhậm chức:
1. Độc lập, để bảo vệ vững chắc chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, để chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc,
2. Giữ hòa bình để phát triển đất nước, cải cách tư pháp, bảo vệ hiến pháp, pháp luật, quyền công dân, phát huy dân chủ, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.
Thời gian sẽ trả lời về chính tri này của ông trước nhân tri của Việt tộc, nhưng như đầu bài chính luận này đã nhắc 8 lần lỡ tàu của ĐCSVN, tới từ chuyện thiếu nhân lý nên vắng chính tri của các lãnh đạo, chúng ta nên cẩn trọng với các lời hứa (hão) của chính khách, qua các xảo thuật của chính giới. Trong tâm lý học, có trường phái situationniste, giải luận tình huống, nhận định là không ai sinh ra thành hèn nhát, cũng không ai sinh ra là can đảm; hèn nhát và can đảm không hẳn là một hằng số, mà thường là ẩn số, rất dễ trở thành biến số trước con tính ích kỷ cá nhân trong bối cảnh phức tạp luôn thay đổi của so sánh lực lượng, trong những tình huống khác nhau, con người “biến thiên” theo thời cuộc, thời bắt thế, theo thời phải thế. Aristote không đồng ý với quan điểm này khi ông phân tích nguồn cội của đạo đức, được sinh ra và lớn lên trong quá trình tôi luyện của cá nhân trong những môi trường giáo dục đạo lý, biết kiềm chế trước hưởng thụ, biết can đảm trước thăng trầm. Can đảm có sức thể hiện đạo đức bề ngoài, nhưng có mang nội dung luân lý không? Một người lính trung thành trong mù quáng dưới quyền điều khiển của một bạo chúa, hắn can đảm trong trận mạc, rồi dùng can đảm này trong đàn áp dân oan, thì hắn có nội dung luân lý không? Câu trả lời là không! Và Việt tộc mong là quân đội và công an sẽ biết từ chối khi nhận được các lệnh bất nhân là đánh dân, giết dân. Như vậy, một hành động can đảm phải luôn mang trong gốc, rễ, cội, nguồn của nó một giá trị đúng, đúng trong bất di bất dịch, đúng khi chống bất công để bảo vệ công bằng, và đúng khi đưa nhân phẩm thăng hoa theo những cái hay, đẹp, tốt, lành. Đạo đức luôn dựa vào nghĩa vụ trong đó can đảm phải kham bổn phận và trách nhiệm, làm nguyên tắc và phương hướng của mọi tình cảm luân lý; đạo đức cũng phải biết dựa vào tư duy về hậu quả, không gây hậu quả xấu cho đồng loại, luôn tạo hiệu quả lành cho nhân sinh. Dewey dặn dò ta phải ngờ vực luôn cả các cứu cánh của ta, mặc dù ta có đầy đủ các lý lẽ để thực hiện chúng, vì các cứu cánh của ta khi biến thành mục đích, mục tiêu trong cuộc sống, mà ta không thực hiện được trọn vẹn, đầy đủ vì nó đòi hỏi sự can đảm, lòng dũng lược quá cao mà không ai với tới, thì nó không còn nguyên vẹn là cứu cánh nữa. Từ đây trường phái thực dụng ra đời, dựa trên định đề: lập luận về cứu cánh dù là đầy đủ về ý thức, trọn vẹn về luân lý, hoàn chỉnh về đạo lý cũng chỉ là thượng nguồn của lý trí, làm chỗ dựa cho các ý nguyện; nhưng trong thực tế thì không gian và thời gian của một quyết định thực, của một hành động chính thực và cụ thể mới là gốc, rễ, cốt, lõi của vấn đề. Hãy giữ câu: “Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân” trong tuyên bố của tân chủ tịch nước Trần Đại Quang, để xét nhân lý – nhân trí của cá nhân ông trong những ngày tới. Vì nhân tri khi đã dẫn dắt được chính tri, thì quyết đoán chính tri đúng và lành sẽ có chỗ đứng sâu đậm trong nội công và bản lĩnh của Việt tộc; vì nhân tri đủ tầm vóc để nhìn lại quá khứ của cả một dân tộc, chẳng hạn như cuộc chiến tranh cuối cùng của thế kỷ qua, Bắc Nam máu đổ xương rơi, với hơn 6 triệu hương linh, mà thực chất chỉ là một cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn. Trong cả một giai đoạn dài, 1954-1975, chính tri – chính kiến trong chính giới – đã không có chỗ đứng trước các sức ép không những của các cường quốc muốn áp chế Việt Nam thời đó, mà chính các ý thức hệ lai căng đã dồn ép dân tộc ta vào thảm trạng và bi kịch huynh đệ tương tàn này. Chúng ta phải lấy ra những bài học tỉnh táo của nhân tri để làm ra cái sáng suốt cho chính tri: các thế hệ đàn cha, đàn anh hãy viết thật rõ lịch sử giai đoạn này với tất cả thiện ý của nhân tri để các thế hệ đàn con, đàn em hiện nay đang muốn đóng góp với đất nước có được cái thông minh qua đối thoại của bầu bí vẫn leo chung được một giàn, trong cái thiện chí của một dân tộc cùng giống, cùng nòi, Nam Bắc một nhà, để vượt qua cái vô minh gà nhà bôi mặt đá nhau bằng các ý thức hệ của ngoại bang. Cái thông minh đối thoại của anh em một nhà, đóng cửa chỉ bảo nhau, có trong truyền thống tổ tiên của Việt tộc, một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ, thông minh vì biết đối thoại, biết đối thoại để hiểu nhau, biết hiểu nhau để thương nhau, biết thương nhau để che chở, đùm bọc nhau. Nếu chúng ta có nhân tri thì chúng ta đủ thông minh để biến chuyện thương tâm trong cuộc chiến vừa qua thành nỗi niềm chung trong chính tri như là một hộ lực để cùng dặn dò nhau không để xảy ra chuyện huynh đệ tương tàn nửa. Chỉ có những kẻ khôn nhà dại chợ mới vỗ ngực là mình đã “thắng trận” trên xương máu anh em của mình, họ không biết là cái vô tri này tới từ cái vô minh của họ, làm họ trở nên vô giác, rồi họ tự lạc hướng trong vô cảm, để giờ họ thành vô lý trong cái vô tình trước các hương linh của Việt tộc, họ phát biểu với câu vô duyên, và tương lai của họ thì chắc chắn là vô hậu, vậy thì làm sao họ có chính tri được! Các sử gia Việt Nam đừng viết sử Việt tộc dễ dãi và nhất là các lãnh đạo chính trị hiện nay phải có cái thông minh của đối thoại, họ phải đủ trình độ thiện thức, đủ vai vóc thiện căn để thấy, hiểu và làm rõ nỗi niềm chung trong quá khứ, để tránh tất cả chuyện thương tâm có thể xảy ra trong tương lai. Các lãnh đạo hiện nay không cần đi học thêm, cũng chẳng cần đi du học xa xôi để có chính tri thông minh của cái nuôi nỗi niềm chung cũ để tránh chuyện thương tâm mới, họ chỉ cần điều tâm, lọc ý ngay trong văn hóa, văn minh, văn hiến của tam giáo đồng nguyên (Khổng, Lão, Phật). Đây là nơi mà Phật đã nâng vai cho Khổng, đỡ lưng cho Lão, khi mà Việt tộc đã chế tác ra được một tư tưởng rất sáng suốt, để có được các hành động từ tâm chỉ trong một động từ: xí xóa (chín bỏ làm mười). Đây là thượng nguồn của mọi thông minh trong đối thoại, đều dựa trên cái thông minh tôn trọng lẫn nhau – giữa các chính phái không cùng một chính kiến trong chính giới, vì gốc, rễ, cội, nguồn của thông minh này làm được ba việc: việc thứ nhất là đoạn đức, chặt đứt hết mọi hận thù để tránh mọi đau khổ, thương tâm; việc thứ nhì là trí đức, dùng tuệ giác để tháo gỡ mọi hiểu lầm, khúc mắc, để nhận diện sự thật, thấu đáo chân lý, tiếp nhận lẽ phải; việc thứ ba là ân đức, khả năng hiến dâng hạnh phúc cho mọi người, hiến tặng an lạc tới mọi nơi.
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).