Chính pháp nắm chính tri
Đại hội ĐCSVN đã xong, tin buồn lớn cho Việt tộc là sẽ không có dân chủ hóa xã hội dân sự. Cái khác nhau giữa hai chế độ: toàn trị và dân chủ nằm ở trong lý luận và lập luận của chính pháp – chính nghĩa của pháp luật. Hãy lấy thí dụ con bệnh ung thư đang gặm nhấm xã hội Việt Nam hiện nay: tham nhũng nội kết với tham ô, đút lót sinh đôi với hối lộ, chế độ toàn trị dàn cảnh, dựng tuồng để dân tình phải coi con bệnh ung thư này là bình thường, là cơm bữa, ngược lại chế độ dân chủ chỉ chấp nhận nó tạm thời, sau đó sẽ mang nó ra ánh sáng để tra, để xét, để xử, để phán cho bằng được. Cái xấu, tồi, tục, dở thường được coi là chấp nhận được trong chế độ toàn trị, vì bị bắt buộc chấp nhận, thì trong chế độ dân chủ sẽ bị coi là không thể chấp nhận được, vì không có nhân lý gì phải chịu đựng nó. Cái chính pháp của chế độ toàn trị nó huyền ảo, để dễ đánh lận con đen; cái chính pháp của chế độ dân chủ nó hiện thực, để làm rõ chuyện “cướp ngày là quan” là không thể chấp nhận được; “con vua thì được làm vua” là không thể chấp nhận được, và nếu không thể chấp nhận được, thì đừng dung thứ nó, vì dung thứ cái xấu, tồi, tục, dở bây giờ, thì sau này sẽ vô tình tha thứ cho cái thâm, độc, ác, hiểm. Đó cũng là cái bi kịch của ĐCSVN đang dung thứ cái xấu, tồi, tục, dở ngày qua để phải nhận cái thâm, độc, ác, hiểm của bọn lãnh đạo Trung Quốc ngày nay. Chính pháp luôn mang theo nó ba nội dung: mọi người bình quyền trước pháp luật, dù người đó cầm quyền hay là nạn nhân của quyền; không ai được đứng trên luật, dù người đó viết ra luật hay không biết luật. Sáng ngày 1 tháng 4 năm 2016 trong buổi họp Quốc Hội, chúng ta thấy được ba nhân tri đẹp của ba vị đại biểu: Võ Thị Dung, Lê Văn Lai, Trương Trọng Nghĩa, bị lạc lõng trong một quốc trường hoàn toàn vắng chính tri, trên truyền hình chúng ta thấy các khuôn mặt của các đại biểu ngồi chung quanh ba vị đại biểu này, một tập thể thờ ơ đến độ trâng tráo, không có nhân phẩm trong sĩ diện, không có nhân tâm trong khí thế để đứng cùng phía với ba vị này, khi cả ba đề cập đến các lĩnh vực đang bao trùm trên số phận của Việt tộc từ kinh tế tới xã hội, từ giáo dục tới đạo đức, và không quên kể tội bọn ngoại xâm Trung Quốc trên biển Đông đang cướp chủ quyền của ta. Ba vị đại biểu này càng thẳng lưng khi phát biểu, thì đám nghị gật chung quanh càng cúi đầu, cúi thân, như bị đe dọa bởi một bạo lực vô hình nào đó, vì cúi quá thấp nên đám nghị gật này đã đánh rơi xuống đất nhân cách chính tri của họ. Đại biểu Võ Thị Dung nêu lên cái “lo về sự suy thoái về đạo đức xã hội, văn hoá càng lúc càng suy đồi, các giá trị truyền thống bị mai một hoặc xuống cấp”, đi cùng với cái “lo nạn ngoại xâm từ Trung Quốc, kẻ trước đây đã chiếm Hoàng Sa và Trường Sa, nay lại bồi đắp các đảo nhân tạo ở Trường Sa để mưu toan lấn chiếm cả Biển Đông của Việt Nam”. Đại biểu Lê Văn Lai rất rành mạch trong chất vấn: “Tôi ngạc nhiên khi trong tất cả báo cáo của chính phủ và các cơ quan hữu quan đánh giá về Biển Đông đều cho rằng “đảm bảo chủ quyền, lợi ích quốc gia”. Đánh giá “đảm bảo chủ quyền quốc gia” trong khi người ta xây sân bay, kéo pháo hạm, đưa máy bay tiêm kích, o ép dân, cướp bóc dân, thậm chí là giết dân…. Người ta sắp tuyên bố những điều xâm phạm tới chủ quyền như là dùng các chuyến bay cắt ngang các chuyến bay truyền thống được quốc tế công nhận…. Trung Quốc xâm phạm chủ quyền của chúng ta tần suất 20 năm một lần. Năm 1956 chiếm Đông Hoàng Sa. Năm 1974 lấy Tây Hoàng Sa. Năm 1988 lấy đảo Gạc Ma. Năm 2014 kéo giàn khoan vào biển Đông và sau đó tần suất dài hơn, dày hơn để xâm lấn chủ quyền. Trong khi đó chúng ta ngồi đây và yên bình đánh giá là đảm bảo chủ quyền quốc gia. Liệu điều đó có công bằng? Đánh giá như thế thì chúng ta đưa ra quyết sách, sự phản đối, đối kháng đã đủ chưa, phù hợp không?”. Đại biểu Trương Trọng Nghĩa yêu cầu nêu đích danh Trung Quốc là ngoại xâm, và phải xác định chúng là thù, chớ không phải là bạn. Mà năm qua chúng ta không quên cảnh hỗn quân, hỗn quan ngay trong chóp bu của Bộ Chính Trị, nơi mà Nguyễn Phú Trọng bôi mặt khi tuyên bố: “Tình hình Biển Đông không có gì mới”, và Nguyễn Tấn Dũng, khi đó còn là Thủ Tướng đã bơi ngược dòng, để nói ngược chiều: “Chủ quyền lãnh thổ, biển đảo là thiêng liêng, nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông lệ thuộc nào đó”. Câu chuyện chính tâm trong chính tri của giới lãnh đạo hiện nay, phải được xem xét cho tới nơi, tới chốn: cúi đầu trước ngoại xâm Trung Quốc nhưng lại đàn áp thẳng thừng các cuộc biểu tình yêu nước đòi lại chủ quyền của ta trên biển Đông (Hoàng Sa, Trường Sa). Hương linh của hàng vạn đồng bào đã bị giết hại ở biên giới Việt – Trung, cùng với sự hy sinh của 88 chiến sĩ ở đảo Gạc Ma, đã không nhận được một nghi lễ tưởng niệm chính thức nào lại còn bị cấm; chưa hết các đồng đội của các chiến sĩ đã hy sinh tại biên giới 1979, chỉ muốn đặt vòng hoa tưởng niệm, đã phải chứng kiến cảnh công an trá hình thành du đãng tới sỉ nhục, quấy phá, xua đuổi họ.
Hiểm họa, trực tiếp và dài lâu, đe dọa từ chủ quyền của đất nước tới sinh mệnh của giống nòi Việt tộc vẫn là xâm lược Trung Quốc, nhân tri cũng phải xem xét cho tới nơi tới chốn các hiểm họa này. Tại sao lại để cho các tập đoàn Trung Quốc vào ào ạt ngay từ cuối thế kỷ qua, để xây dựng hơn 40 nhà máy đường trong gần 30 tỉnh, thành phố, những nhà máy này không làm ra lợi nhuận mà chỉ để lại những con nợ khó đủ sức thanh toán? Cũng vẫn con số hơn 40 nhà máy xi măng lò đứng của Trung Quốc sản xuất ra loại xi măng chất lượng tồi, mang đến tai họa hiện nay là 40 nhà máy này biến thành 40 hố thẳm vùi tiền, cùng lúc gây ô nhiễm trầm trọng môi trường. Tai tiếng của các tập đoàn Trung Quốc ai cũng biết: đi tới đâu là làm ô nhiễm môi trường tới đó, từ Á Châu qua Phi Châu, mà họa nạn thấy rất rõ ở ngay trên nước bạn láng giềng với Việt Nam là Lào, qua việc sử dụng quá bừa bãi thuốc chống rầy, được dùng với mức quá cao, hiện gây ra bao bệnh tật với số lượng nạn nhân ngày càng cao, mà chính quyền Lào đang giấu dân họ. Môi trường ô nhiễm của Lào do các tập đoàn Trung Quốc gây ra vừa trong nông nghiệp, vừa trong chuyện xây dựng bừa bãi các nhà máy thủy điện, giờ đây đã theo dòng sông Mê Kông xuống gây ô nhiễm cho Thái Lan, mà Việt Nam sẽ khó tránh khỏi trong những ngày tới. Các tập đoàn Trung Quốc đi tới đâu là tham nhũng và hối lộ sinh sôi tràn lan tới đó, tiếp đến là nạn thất thoát ngân sách, rồi sản xuất bị què quặt, sau đó là thị trường bị gài bẫy, đi cùng với ý đồ chuyển người, đưa dân qua đường lao động. Thế giới ngày càng thấy rõ cách làm gian lận về mọi mặt này của các tập đoàn Trung Quốc, luôn được sự hỗ trợ trong bóng tối của các lãnh đạo Trung Quốc, mà hiện nay khi đã dính tới các tập đoàn Trung Quốc thì sa lầy không có lối ra. Nhà máy gang thép Thái Nguyên đang chịu số kiếp thui chột trong sản xuất; nhà máy liên hợp gang thép Vạn Lợi, Hà Tĩnh cũng trong số phận dở sống, dở chết; còn nhà máy sợi Đình Vũ, Hải Phòng quyết định dừng sản xuất để chống thua lỗ. Chính các lãnh đạo của Bộ Chính Trị đã quyết định mở cửa cho các tập đoàn Trung Quốc ngay cuối thế kỷ vừa qua, đó là lời giãi-bày-như-tự-thú của Phan Văn Khải khi còn là thủ tướng, như vậy thì Bộ Chính Trị đừng nói là họ không biết là các tập đoàn này đã có sẵn các ý đồ thao túng kinh tế, gài bẫy thương mại, giật dây thị trường Việt Nam. Trong đạo đức học, các triết gia phân biệt hai loại đạo lý, ở đây đạo lý làm giá trị cho luân lý: đạo lý tối thiểu là không được làm hại tính mạng, làm tổn thương nhân cách kẻ khác; đạo lý tối đa là có trách nhiệm trước các nguy hiểm đe dọa tính mạng của kẻ khác, phải giúp đỡ kẻ khác trong nguy cơ. Nếu Bộ Chính Trị không có đạo lý tối đa để bảo vệ Đất Nước trước thảm họa Trung Quốc, thì ít ra họ phải có đạo lý tối thiểu trước Việt tộc. Nếu Bộ Chính Trị có chính tri được chế tác bằng chính tâm của họ, thì họ phải nói cho dân chúng biết là bao nhiêu chục ngàn tỷ đồng bị thất thoát, bị tham nhũng vào các vụ có dính dáng đến các tập đoàn Trung Quốc? Tại sao phải giấu? Giấu là hèn, là nhục! Họ giấu tức là họ đang điếm lận với chính tâm của họ.
Nhân tri dắt chính tri (P6)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).