Nhân tri dắt chính tri (P3)

Chính lý dẫn chính tri
ĐCSVN dựng kịch bản “phân quyền tứ trụ” mà nhân gian nêu đích danh : “cá mè một lứa”; cho nên thảm họa lớn cho Việt tộc là sẽ không có chia quyền vì bổn phận, sẽ không có cộng sức vì trách nhiệm cho tất cả thành phần xã hội, đồng ý hoặc không đồng ý với ĐCSVN. Vậy thì lối ra, ở đây, vừa là lối thoát và vừa là lối lên của dân tộc hiện nay là gì? Chỉ có nhân trí mới bảo vệ được nhân tri, chỉ có dân chủ bảo vệ được dân chúng. Dân chủ không phải chỉ là quyền ứng cử và quyền bầu cử, mà nội chất của dân chủ là đối thoại thường xuyên, là đàm phán liên tục; đối thoại và đàm phán trước, trong, sau khi đã ứng cử, sau khi đã bầu cử, vì hợp đồng dân chủ qua bầu cử chỉ là một trong những quá trình quản lý và xử lý dân chủ. Khả năng đối thoại và bản lĩnh đàm phán là các quá trình hằng ngày của dân chủ, thắng thành đa số, thua làm thiểu số, thắng thua nhau bằng lý giải, tức là bằng lý luận và lập luận, chứ không bằng bạo động dẫn tới bạo hành, tức là không bằng công an và quân đội. Chính lý dẫn chính tri rất dễ thấy trong các xã hội có dân chủ, biết sống văn minh, người ta di chuyển, giao thông trên đường phố, sẽ không thường thấy cảnh sát, công an canh, gác, gườm, rình mà chỉ thấy luật đi đường nơi mà mọi người hiểu và tôn trọng vì an toàn cho mỗi người, an ninh cho mọi người. Chính lý dẫn chính tri cũng dễ thấy trong nhân sinh quan của một quốc gia khi họ tự sáng tạo ra thế giới quan để sống chung với láng giềng, với lân cận. Honduras và Costa Rica là láng giềng, là lân cận, nhưng trên lãnh thổ của Honduras, người ta thấy các tượng chiến sĩ với các khẩu lệnh “sẵn sàng quyết tử”, nhưng trên đất nước của Costa-Rica, cũng có tượng và khẩu lệnh nhưng rất khác Honduras, vì tại đây du khách có thể đọc được những câu rất nhân tri dẫn chính tri của dân tộc này: “Trên quê hương này không có bà mẹ nào bị bắt buộc phải làm mẹ của liệt sỉ”. Dân tộc Costa-Rica cũng yêu nước như dân tộc Honduras, vậy mà trên đất nước họ vắng bóng công an, tanh bóng cảnh sát, nhưng họ rất hiệu quả trong việc bảo an; họ không có quân đội, không có ngân sách quốc phòng nhưng họ rất bản lĩnh để bảo vệ đất nước họ, và họ rất khác người láng giềng kề cận Honduras. Costa-Rica bảo vệ môi trường rất thông thái, họ phát triển du lịch rất thông minh, họ sáng tạo trong kỹ nghệ truyền thông rất thông suốt, họ tiếp nhận toàn cầu hóa với sáng kiến rất thông hòa của họ. Costa-Rica lấy nội lực “trong ấm”, để dựng lên nội công “ngoài êm”; lấy vai vế “được mắt ta” để gây dựng lên vai vóc “ra mắt người”; lấy tầm cỡ “thuận buồm” chính lý làm tầm vóc “xuôi gió” cho chính tri. Mặc dầu Costa-Rica là một nước nhỏ, dân số ít, nhưng họ vào các buổi họp của Liên Hiệp Quốc lưng thẳng, đầu ngẩng, và chưa hề quỳ gối trước bất cứ cường quốc nào. Trong khi hiện nay, người Việt mà đi lang thang trong các hành lang của các cơ chế quốc tế, thì hay bị chận hỏi bởi một câu rất lạ, làm ta phải chột dạ: “Việt Nam có nhiều kinh nghiệm chiến tranh, đánh giặc giỏi, chiến thắng các cường quốc lớn, tại sao hiện nay các bạn để Trung Quốc ăn hiếp các bạn quá vậy?”. Bị chận hỏi nhiều lần, bị nhiều lần chột dạ, tôi thấy cần phải trả lời thành thật với họ: “Nói gần, nói xa, không qua nói thật: chúng tôi bị Trung Quốc ăn hiếp chỉ vì “bề trên ăn hưởng độc quyền, để cho bề dưới toàn quyền lênh đênh”, tức là chính quyền, tức là lãnh đạo của chúng tôi không có nội công chính lý, không có nội lực chính tri. Không có nội công trong chính lý, không có nội lực trong chính tri thì làm sao có tầm vóc trong chính trị!”. Với năm tháng trôi qua, tôi không muốn đổi một dấu phẩy trong câu trả lời này. Nghĩ sâu chỉ thêm buồn, vì theo thống kê về số lượng tướng lãnh trong Bộ Quốc Phòng và Bộ Công An, thì Việt Nam hiện nay là quốc gia có nhiều tướng nhất, nhưng định lượng không phải là định chất, vì những ông tướng này không biết và không muốn bảo vệ lãnh thổ, biên cương của tổ quốc Việt tộc trước ngoại xâm Trung Quốc, mà họ chỉ có “biệt tài ăn hiếp dân oan”, đàn áp nhân quyền, truy diệt nhân lý, mà chính họ cũng không biết là khi nhân lý đã bị diệt thì chính lý của họ cũng sẽ mất luôn.
Dân chủ sẽ là lối ra của Việt tộc, vì đây là chế độ vừa cởi mở liên tục với đa nguyên, vừa thao thức thường xuyên với nhân quyền – nhân tính của nhân sinh – luôn tìm cách tháo gỡ những khúc mắc tới từ các chướng ngại không những được tạo ra bởi các tư lợi mỗi ngày một phức tạp, mà còn tới từ các ẩn số luôn luôn mới đến trong khoa học, kỹ thuật, truyền thông… bó buộc các cơ chế phải thay đổi để có hành chính thích hợp, các định chế phải chuyển đổi để có pháp lý thích ứng. Như vậy thực chất của dân chủ là gì? Là khả năng giải luận – bằng lý luận và lập luận – sự thay đổi trong chính quyền qua bầu cử, sự chuyển tiếp quyền lực qua khả năng lãnh đạo của các chính phái khác nhau, trên mục tiêu và chương trình của họ; mà tất cả phải dựa trên thực tế “có thực mới vực được đạo”, với cái song nghĩa của từ thực, vừa là lương thực, vừa là sự thực. Lương thực cũng theo nghĩa đôi: “cơm no, áo ấm” và “trong ấm, ngoài êm”; rồi sự thực cũng theo nghĩa đôi: “có tích mới dịch nên tuồng” và “có bột mới gột nên hồ”. Không hiểu và không nắm song nghĩa-lưỡng tự này thì đừng lãnh đạo, cho dù là lãnh đạo của bất cứ đảng phái nào! Trong quá trình xây dựng chủ thuyết cộng sản mà lập luận là dựa trên duy vật biện chứng, lý luận kinh tế là hạ tầng kiến trúc để gầy dựng thượng tầng kiến trúc qua định chế và cơ chế, thì cha đẻ ra chủ thuyết này là Marx chưa hề giải thích đầy đủ về lực hệ trọng của thị trường được tổ chức qua tự do cạnh tranh trong các sinh hoạt kinh tế, mà Marx chỉ dùng kinh tế như chỉ báo lịch sử để giải thích các quá trình tổ chức xã hội. Cái thất bại từ thượng nguồn của chủ thuyết cộng sản chỉ xét kinh tế như hạ tầng, mà không xét nghiệm kinh tế là chủ lực – chủ đạo; định đề này ngày càng rõ trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, nơi mà các khủng hoảng thị trường tạo ra các suy thoái kinh tế, luôn bó buộc các quốc gia phải vừa thích ứng theo thời cuộc trong thương mại, phải vừa thích nghi theo tình huống trong cạnh tranh. Cuộc khủng hoảng 1919 là hậu nạn của chủ thuyết tự do cạnh tranh; nhưng cuộc khủng hoảng 2008, là họa nạn của một toàn cầu hóa kinh tế và thương mại đã có sân chơi, có trò chơi, nhưng chưa có luật chơi. Ở đây phải đẩy lý luận dân chủ đi thêm bước nữa: dân chủ là động não để tổ chức xã hội theo hướng công bằng, vận não để quản lý kinh tế theo quy luật của pháp lý, vắt não để bảo vệ tự do phải đi song hành với bác ái. Tự do của nhân tri phải kề vai với công pháp của chính tri. Chính vì vậy mà nguyên tắc dân chủ đã sống còn, vẫn tồn tại với thời gian, rồi phát triển mọi nơi trên thế giới, như một nguyên tắc phổ quát cho nhân sinh, trong một nhân loại biết quý trọng nhân quyền. Nhưng nguyên tắc dân chủ không phải là ứng dụng dân chủ, vì áp dụng qua hành động cụ thể là vấn đề trình độ nhân tri, mức độ của nhân trí. Phạm trù nhân tri-nhân trí là hệ vấn đề trung tâm của các nguyên tắc – ứng dụng – hành động trong dân chủ, luôn lấy cái danh chính của nhân tính, cái ngôn thuận của nhân lý để thắng cái vô minh của độc tài, cái vô tri của độc đảng. Vì nội chất đa nguyên của dân chủ là đa kiến để thấy được nhiều chiều, đa thức để có nhiều kiến thức khác nhau, tới từ đa nguồn trong quá trình hiện đại hóa các sinh hoạt xã hội.
Dân chủ còn là quá trình tự chủ hóa của nhân loại, trong đó các phong trào xã hội ngày càng đa dạng, vì tự do của cá nhân, của tập thể, của cộng đồng ngày càng đa nguyên, tạo ra các tác nhân tự chủ chế tác ra các sinh lực xã hội mới, từ chính trị tới công đoàn, từ kinh tế tới văn hóa…. Các cuộc cách mạng công nghiệp, khoa học, kỹ thuật, truyền thông liên tục xuất hiện để củng cố hai cuộc cách mạng lớn của nhân loại: cách mạng nhân quyền và cách mạng dân chủ. Tất cả các cuộc cách mạng này không bao giờ ngừng, chúng không ở đằng sau chúng ta mà luôn ở trước mặt chúng ta, định hướng các chân trời cho nhân loại. Nhân tri của Việt tộc phải giải luận tới nơi tới chốn các chân trời này để sống còn-rồi-sống chung với thế giới văn minh, như vậy chính tri của chính trị phải luôn luôn thức tỉnh trước thử thách này của dân tộc, không được lỡ đò, sai tàu, trật đường như đã phản vận, bội kiếp với cái hay, đẹp, tốt, lành. Dân chủ luôn được mổ xẻ qua hai thực thể: chính trị và công pháp. Chính trị theo nghĩa chính tri trong cặp đôi chính quyền-quốc gia, trong đó chính quyền bảo vệ xã hội từ hiến pháp tới định chế, nơi mà pháp luật sẽ bảo quản tất cả các sinh hoạt của nhân tri, không ai được tham nhũng qua độc quyền, không ai được hối lộ qua lạm quyền. Tức là phải sống trong luật, không xé luật, không lách luật; tổ tiên Việt tộc đã dạy chúng ta rất kỷ: Con ơi nhớ lấy câu này, cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan. Dân chủ khẳng định phải thay đổi thường xuyên để tìm hướng đi lên trong luật pháp, vừa làm luật cho công bằng có đạo lý, vừa làm luật cho tự do có ý thức. Dân chủ không cho phép quyền lực chính trị đứng trên vai, đi trên lưng xã hội dân sự; ngược lại dân chủ tạo điều kiện cho quyền lực chính trị thực hiện các phương hướng đi lên cho nhân trí, tạo ra môi trường thuận lợi để bảo vệ nhân tri. Dân chủ không cho phép quyền lực chính trị ra lệnh, ép quyền trên xã hội dân sự, nhưng dân chủ tạo điều kiện thuận lợi cho quyền lực chính trị đề ra các chương trình giáo dục, đào tạo, huấn luyện trong một hệ thống xã hội biết tôn trọng nhân trí. Dân chủ rộng và mở luôn cho phép tồn tại trong chế độ dân chủ nhiều lực lượng chính trị rất khác nhau, mà lịch sử nhân loại đã cho thấy ít nhất là ba lực lượng: lực lượng bảo thủ (conservatisme) tôn vinh trật tự để quản lý xã hội; lực lượng tự do (libéralisme) dùng pháp luật để bảo vệ tự do cạnh tranh; lực lượng xã hội (socialisme) dùng công bằng để tạo ra công lý. Tranh cử qua bầu cử của các lực lượng này không những là sự tranh đua về phương hướng đi lên của xã hội dưới dạng các chương trình chính trị, mà cùng lúc là sự tranh hùng về tài năng và hiệu quả tổ chức xã hội. Bó buộc các lực lượng chính trị muốn lãnh đạo phải luôn có sáng tạo, có cải cách hoàn thiện để thắng cuộc trong chính trường dân chủ, làm ra được lực tổng thể giữa các cuộc cách mạng công nghiệp, khoa học, kỹ thuật, truyền thông, các cuộc cách mạng này hợp sức với các lực lượng chính trị – rất khác nhau nhưng có cùng một động cơ cạnh tranh – để củng cố dân chủ, từ đó đã làm ra cuộc cách mạng nhân quyền, mà sung lực từ 1789 không ngừng thăng hoa cho tới ngày hôm nay.
Nhân tri dắt chính tri (P4)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).

 

Bình luận về bài viết này