Chính nghĩa dìu chính tri
ĐCSVN còn thì tin buồn lớn cho Việt tộc là sẽ không có đa nguyên, để có đa lực làm nên tổng lực cho việc phát triển đất nước, để lấy dân chủ dìu tự do, rồi lấy tự do nâng dân chủ, trong mọi sinh hoạt xã hội ngày càng tự chủ, trong mọi định chế ngày càng có chính tri, và biết dựa vào nhân tri (chính nghĩa của nhân trí), trong đó những người tài được quyền ứng cử, và người dân được quyền chọn các người tài này qua bầu cử. Trong quá khứ của nhân loại, một cộng đồng dân tộc từ chỗ chấp nhận quyền lực từ trên áp đặt xuống, bắt dân coi vua là thiên tử, rồi tôn giáo tự cho phép mình đại diện cho thượng đế; trong khi đó một xã hội dân sự hiện đại luôn được bảo vệ bởi tam quyền phân lập: lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó hành pháp không ở trên tư pháp, mà phải tuân thủ tư pháp đại diện cho luật pháp, được thi hành qua công pháp, đại diện cho công lý. Hiện nay, Việt tộc chưa có cái cơ may để sống trong các định chế này, chỉ vì độc tài, độc tôn, độc quyền do độc đảng hiện nay không cho phép lập pháp đại diện cho nhân tri, tư pháp đại diện cho nhân lý, đủ sức hướng dẫn hành pháp phải sinh hoạt trong khung chính lý của chính tri. Một xã hội dân sự luôn được bảo vệ bởi tam quyền phân lập: lập pháp, hành pháp và tư pháp, luôn có khả năng rời những cái áp đặt vô hình (trời, thượng đế), để lập ra các định chế, các cơ chế ngày càng tự chủ để tự quyết cho nhân quyền của mình, do chính mình tự định nghĩa. Tự do để tự chủ, tự quyết để quyết đoán về chính nhân cách của mình, được chế tác từ nhân phẩm và nhân trí của mình. Tự do, tự chủ, tự quyết vừa là quyền lợi, vừa là quyền lực của nhân sinh; vừa là sự thông minh của nhân trí, vừa là cái sáng suốt của nhân lý, vì nó biết làm ra đạo lý (bình đẳng) để bảo vệ luân lý (công bằng), nó cũng biết làm ra pháp luật để bảo vệ nhân tính, lại vừa biết sáng tạo các hợp đồng (ứng cử, tuyển cử, bầu cử) có nhiệm kỳ, có định kỳ. Một xã hội dân chủ có tự do, tự chủ, tự quyết biết tổ chức xã hội qua các định chế xã hội để bảo vệ các sinh hoạt xã hội, tức là các sinh hoạt của tập thể, của cộng đồng, của dân tộc, qua đạo lý của truyền thống đẹp, phong tục hay, cùng lúc dùng khả năng sáng tạo ngay trong hiện tại của mình để tìm ra nhân sinh quan tốt, thế giới quan lành cho tương lai. Đây là điểm hội tụ không những giữa xã hội học và dân tộc học, mà cũng là nơi gặp gỡ giữa chính trị học và đạo đức học, trong đó luật học biết bảo vệ nhân phẩm, không rời triết học biết bảo hành cho nhân tri. Hãy giữ lại bài học của Khổng Tử: vô trương bất tín, không thấy không tin, không thấy trời sinh ra vua thì không tin, không thấy thượng đế trao quyền lại cho tôn giáo thì không tin, cũng như hiện nay không thấy ĐCSVN là lực lượng tinh hoa nhất của dân tộc thì được quyền không tin! Cái nội lực của dân chủ là biết nghiệm lại để làm lại, biết tính lại để quyết lại, biết suy lại để đi lên, đây cũng là một nội công mà các chế độ độc tôn vì độc tài và độc quyền, độc đảng rất ngại, rất lo, rất sợ! Vì cái độc (quyền) sinh ra từ cái tư (lợi), lớn lên trong cái chiếm (của), cho nên luôn tìm cách diệt, hủy, hại cái đa, chỉ vì cái đa sinh ra từ cái chung, lớn lên trong cái chia, cho nên cái đa xa lạ với cái tư, nó lạ lẫm với cái thói chiếm đoạt. Cái độc không muốn thay đổi, cái đa luôn muốn đổi để đi lên; cái độc không muốn mở cửa, cái đa luôn muốn mở nhà, mở vườn, mở cổng; cái độc muốn bế môn tỏa cảng, cái đa muốn đi cho biết đó biết đây; cái độc muốn ngăn sông cấm chợ, cái đa muốn đi một ngày đàng học một sàng khôn. Trong quá khứ của nhân loại, khi dân chủ chưa định hình thành thể chế, khi nhân quyền chưa hình thành qua công pháp, thì cái đa đã có trong cái triết của một minh quân, cái chung đã có trong cái thông minh của một minh chủ, cái chia đã có trong cái vị tha của một minh chúa (chính vì vậy họ mới minh). Minh, sáng dạ nên sáng lòng, luôn trực diện với chữ độc của ích kỷ, của tham quyền cố vị, để lột mặt nạ cái (ham) chiếm của cái độc. Minh thì phải thức, đây là chức năng minh triết của minh sư, để chống lại cái độc (giả đò) ngủ trước cái tri. Cái độc như một con ác thú (giả vờ) ngủ, cái đa là nhân sinh luôn mở mắt, để vừa nhìn rõ nhân tính, để thao thức cho nhân phẩm, để sáng tạo cho nhân trí, trong nhân lý cho nhân tri. Và nhân trí thì không mơ hồ, không trừu tượng, nhân trí luôn theo hướng tiến bộ của khoa học, kỹ thuật để đưa cuộc sống đi lên, củng cố nhân tri để hoàn thiện giáo dục, tạo sung lực cho nhân lý để bảo vệ nhân tâm. Các tiện nghi vật chất cho nhân sinh tới từ các tiến bộ khoa học, kỹ thuật, có tác động tích cực tới điều kiện sống luôn muốn được ấm no cho nhân loại. Cái vô tri của thực dân, của đảng phái trong đầu thế kỷ XX, đã dùng bạo lực để diệt cái nhân trí trong nhân lý của Phan Chu Trinh; họ vô tình – hoặc cố ý – hủy luôn cái nhân tri trong chính tri của họ. Cái chính nghĩa của nhân trí là lấy cái đầu để nuôi cái bụng, ngược lại với cái vô tri – vô nhân vì vô trí – là lấy cái bụng để nô lệ hóa cái đầu. Cái duy vật – nếu thông minh – thì sẽ lấy nhân trí để chăm lo cho nhân sinh, cái duy sản – nếu khôn ngoan – thì sẽ lấy nhân lý để bồi đắp cho nhân tính.
Cái chính nghĩa của chinh tri không chỉ nằm trong việc đi tìm tự do, tự chủ, tự quyết mà còn là cái thông minh biết chuẩn bị tương lai trong công bằng, là cái khôn ngoan biết dò tìm các chân trời để cộng đồng, tập thể, nhân loại được sống chung và sống yên trong bác ái. Cách mạng công nghiệp trong thế kỷ thứ XVIII tại Âu châu không những làm thay đổi đời sống vật chất của xã hội theo hướng tự sản xuất rồi tự tăng năng suất, mà còn làm cho xã hội ngày càng tự do, tự chủ, tự quyết đối với quyền lực luôn tìm cách áp đặt xã hội theo ý đồ chính trị của nó.
Đầu thế kỷ XX, nhà triết học cũng là một trong những cha đẻ của xã hội học là Comte nhận định rất rõ: “Le pouvoir est stationnaire, tandis que la société est progressive”, quyền lực luôn đứng khựng, trong khi đó thì xã hội luôn (tìm đường để) tiến bộ. Chính cái luôn tìm đường tiến bộ của xã hội làm cho xã hội ngày càng tự chủ trước quyền lực, và muốn làm được điều này thì xã hội dân sự luôn tìm cách làm tăng tự do cá nhân qua các sinh hoạt của xã hội, để cá nhân thành tác nhân đủ sức chế tác các hành động tự chủ có từ tự do của mình, rồi sau đó thành chủ thể sáng tạo ra nhân tri tự quyết để bảo vệ quyền lợi trong bổn phận, để bảo trì tư hữu trong trách nhiệm, có nhân lý và có nhân trí, đây là một trong những định nghĩa về nhân quyền. Tác nhân là năng lực của xã hội, chủ thể là năng lượng của lịch sử, nhân sinh ngày càng nhiều tự do, nhân tính ngày càng nhiều tự chủ, nhờ vậy xã hội kết nối được với lịch sử, và khi phối hợp với nhau sẽ làm tăng nhân trí, để đẩy nhân lý ngày càng cao, rộng, sâu, xa mở hướng cho nhân tri phải hay, đẹp, tốt, lành. Cái nhân lý cao, rộng, sâu, xa phối hợp, hòa điệu với cái nhân tri hay, đẹp, tốt, lành làm ra cao trào cho nhân trí, định hình các phong trào cho nhân lý, luôn chủ động để hành động. Còn quyền lực độc tài, độc tôn, độc quyền, độc đảng thì thụ động trong ích kỷ, cho nên các chế độ toàn trị rất sợ các cao trào, và hay “mất ăn, mất ngủ” vì phong trào. Triết gia Deleuse thấy rõ nỗi lo này của cái độc quyền-tài-tôn-đảng này khi ông đúc kết: “Le totalitarisme ne craint pas les valeurs, le totalitarisme ne craint que les mouvements”, chủ nghĩa toàn trị không sợ các giá trị, chủ nghĩa toàn trị chỉ sợ các phong trào, muốn thay đổi, muốn đi lên, muốn tự quyết, vì muốn tự sinh. Hãy tìm cách đi xa hơn nữa nhận định của Comte, đi sâu hơn nữa phân tích của Deleuse để thấy rõ là tất cả các xã hội trong lịch sử của nhân loại, đều có chính tri (hiểu biết chính trị) trong sinh hoạt nhân tri (hiểu biết nhân quyền) của mình, chính tri này ngày càng sắc nhọn qua nhân tri ngày càng thâm đậm, với sự có mặt của tự do của tác nhân, tự lực của chủ thể. Chính tri (tri thức của chính trị) phải dìu dắt chính giới (ý đồ của phe nhóm, ý muốn của đảng phái), và chính trị luôn dùng ý thức hệ để giải thích quá khứ, với ý đồ là điều kiện hóa tương lai, theo một chiều hướng, tức là theo một mô hình tổ chức xã hội, dựa trên một quyền lực; và từ đó không còn tôn trọng nhân quyền, vì nhân quyền được chế tác từ đa quyền trong đa nguyên. Đa trong tự: tự do cá nhân, tự chủ tập thể, tự quyết dân tộc; đa hòa với tự tạo ra tri, chính tri có đa thức nhờ đa dạng; còn chính trị khi nhốt ý trong hệ, thì đa không bị cải tạo, cũng bị cải trang. Tự do là khai phá, ngược lại với ý thức hệ là theo một mô hình, lúc đầu là khuôn khổ, sau thành nhà tù, không những để nhốt các nạn nhân của ý thức hệ đó, mà cầm tù luôn cả các tác giả của ý thức hệ ngay trong tư duy của họ. Chính tri dựa vào nhân tri là mắt ngựa luôn mở, ngay cả giữa đêm khuya; còn chính trị của ý thức hệ là mắt ngựa dù mở giữa ban ngày nhưng đã bị che kín bởi vải đen của hệ, chỉ biết chạy về một hướng, và chỉ biết cái hướng đó dù là tăm tối, chỉ vì không thấy đầy đủ ánh sáng của các hướng khác. Đa trong tự, nhưng tự cũng trong đa, những đồng lý hội tụ nhau để thành đa số, nhưng những khác biệt khi biết cách sống chung với nhau cũng có thể lập thành đa số; có khi cái đa số trong dị biệt còn thông minh hơn, còn sắc sảo hơn cái đa số của đồng lý (vì là đồng chí) đã có sẵn. Không phải chỉ có một loại hình về đa số, mà có đa loại hình, đa mô hình về đa số, cũng như có đa loại hình, đa mô hình về thiểu số. Và trong thực tế chúng ta còn có luôn thiểu số của thiểu số, nhưng nếu thiểu số của thiểu số có tài năng, có thông minh thì sẽ được đón tiếp bởi nhân tri của đa số. Nhân tri đa số có đủ nội lực để biến thiểu số của thiểu số này, một ngày kia thành đa số của đa số, để đưa cho bằng được nhân trí của thiểu số này vào nhân sinh của đa số. Kinh nghiệm tổ tiên của Việt tộc đã làm rõ chuyện này, cái chính nghĩa của bề trên là thiểu số của thiểu số sẽ trở thành đa số của đa số của bề dưới có trong bài học: “Bề trên lượng cả bao đồng, khiến cho bề dưới đem lòng kính yêu”; ngược lại bề trên muốn đại diện cho đa số của đa số mà: “Bề trên ở chẳng chính ngôi, khiến cho bề dưới, bề tôi hỗn hào” thì một ngày kia sẽ trở thành thiểu số của thiểu số,và sẽ đi tới mạt vận!
Nhân tri dắt chính tri (P3)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).