Nhân tri dắt chính tri (P1)

Hãy nói chuyện lương tri, trước khi nói chuyện nhân tri và chính tri. Lương tri của con người luôn được đúc kết bằng lương tâm và tri thức, lương tâm là phạm trù của đạo lý, nơi mà tình thương làm nên tình người, và tri thức là phạm trù của kiến thức giờ đã thành ý thức giúp tình mỗi người hành động bằng cái sáng suốt của đạo lý, cái tỉnh táo của luân lý. Nếu ngữ văn và ngữ pháp của lương tri được thông suốt để tạo ra thông cảm, rồi thành chỗ dựa cho các đồng cảm giữa chúng ta, thì nhân tri là tổng hợp của lương tâm và tri thức của kiếp làm người, là tổng thể của kiến thức và ý thức. Như vậy, chính tri phải là một chính kiến, ngược lại với tà kiến tới từ cái xấu hoặc cái ác, và tạp kiến tới từ cái tồi, cái dở; chính kiến đại diện cho ý tưởng đúng, cho lý luận ngay, cho lập luận phải, nó mổ xẻ được tương quan giữa sự thật, chân lý và lẽ phải. Trong bài chính luận này, tôi xin được tâm sự với các bạn lập trường của tôi về cụm từ chính tri vừa phải là chính kiến có lực nội kết trong diễn luận, vừa phải là chính kiến trong chính giới, tức là trong giới đang tổ chức chính trị, đang điều hành chính trường, đang nắm sinh mệnh Việt tộc, đang cầm vận mệnh đất nước này, trên một quê hương, trong một xã hội dân sự mà ai cũng biết: chỉ có những người thuộc Đảng Cộng sản mới được quyền làm chính trị. Nếu luật chơi, sân chơi và trò chơi mà độc đoán như vậy, thì tôi là công dân Việt, thao thức vì sinh-vận-mệnh của đồng bào tôi, tôi được quyền yêu cầu chính giới của ĐCSVN hãy đưa dân tộc tôi bằng con đường: nhân tri dắt chính tri, cụ thể là chính tri phải ở dưới, ở thấp hơn nhân tri qua công thức: nhân tri dẫn chính tri, cùng lúc chính tri phải nâng, phải gánh nhân tri. Giải luận về tự tình dân tộc, tôi muốn lập một cầu nối, nếu thành công sẽ thành một cuộc đối thoại chân chính với những người đang muốn nhận trách nhiệm lãnh đạo với đất nước, quyết định số phận của đồng bào mình. Nếu không thành công trong đối thoại này, vì không lập được cầu nối, thì ta vẫn phải tiếp tục vận não, phải liên tục thao tác tư duy, để cùng nhau có một ý thức là không có ai độc quyền nắm sinh mệnh Việt tộc, kìm hãm vận mệnh đất nước này. Thất bại trước mắt sẽ không phải là thất bại vĩnh viễn, tại sao? Vì nếu không có cầu nối thì cũng có cầu vồng, cầu vồng không phải ảo tưởng, mà nó hiển hiện trước mặt mọi người như chứng nhân, chứng từ, như chứng giải (oan) cho chúng ta, có trăn trở với đất nước, với dân tộc, vì chính tâm của chúng ta không trốn tránh trách nhiệm, không lẩn lách bổn phận của công dân; cầu vồng cũng là lúc chúng ta trực diện với các lãnh đạo hiện nay, trên các vấn đề, vừa là bức bách trước mắt, vừa là đạo lý dài lâu của Việt tộc. Đại hội ĐCSVN này tới đại hội ĐCSVN kia, tin buồn lớn cho Việt tộc là sẽ không gì thay đổi, từ 1976, đại hội 4, từ hơn 40 năm qua, 8 đại hội Đảng, 8 lần lỡ con tàu phát triển đất nước, 8 lần bỏ lỡ vận hội của chính tri, bỏ rơi 8 lần bỏ rơi nhân tri; 8 tin buồn trĩu nặng kiếp nhân sinh, 8 lần làm suy kiệt sinh lực giống nòi, 8 lần làm “nhược kiếp hóa” năng lực Việt tộc. Kể từ ngày thống nhất đất nước 1975, có nỗi buồn nào có sức đè, có lực ép tăm tối như vậy không?
Chính đạo đón chính tri
Có độc quyền thì làm toàn chuyện độc đoán, lại một tin buồn lớn cho Việt tộc là sẽ không có một đạo pháp mới làm đường đi nước bước cho công pháp nhân quyền để bảo vệ nhân tri theo nghĩa thông minh nhất, làm nên sức mạnh tổng hợp đưa dân tộc theo hướng đi lên. Người ta chỉ thấy phản xạ của các lãnh đạo ĐCSVN giữ-quyền-để-giữ-tư-lợi, trong khi đó việc tối cần hiện nay là đưa vận mệnh của Việt tộc vào một đạo lý tốt để có pháp lý đúng! Mà thượng nguồn là đặt nó vào trong tư duy lãnh đạo hiện nay: lấy nhân tri để chế tác ra chính tri. Con đường chính tri này có tên gọi là chính đạo, phải là con đường cho chúng ta được chọn lựa hiện tại và tương lai, như vậy nó phải là những ngã tư của dân chủ, chớ không phải là độc đạo của độc đảng, chóng chầy sẽ dẫn chúng ta vào độc đọa: ngõ cụt! Ngã tư của dân chủ giúp ta chọn những con đường nhân lý trước các thử thách mới của toàn cầu hóa; cũng không quên con đường nhân trí trước các cuộc cách mạng khoa học, truyền thông hiện nay; đó cũng là những con đường nhân sinh không những trước các cuộc đấu tranh chống nghèo nàn lạc hậu, và chống luôn cái kiếp làm công cho các nước láng giềng Châu Á, có cùng một nôi văn hóa tam giáo đồng nguyên với Việt Nam (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan), mà các nước láng giềng này giờ đã làm chủ, mà nhiều người Việt Nam đã nhận kiếp lao nô cho họ với điều kiện lao động không chút nhân phẩm.
Cái chính đạo của dân chủ không những giúp ta có cái nhìn tổng quát nhất trước những ngã tư để chọn ra con đường thích hợp cho hiện tại và hiệu quả cho tương lai, mà qua lịch sử của dân chủ ta thấy được một quá trình tư duy thông minh của nhân loại. Trong quá trình này, con người luôn chế tác ra các định chế, các cơ chế ngày càng tự chủ để tự phát triển, ngày càng tự do để tự thăng hoa, trong khung luật của hiến pháp, của công pháp, của tư pháp. Dân chủ sẵn sàng đặt lại vấn đề, tức là đặt lại khả năng lãnh đạo của quyền lực qua bầu cử, đặt lại khả năng quản lý của chính quyền qua chọn lựa trực tiếp hành pháp, dưới quyền kiểm tra của Quốc Hội, bằng bầu cử các cấp toàn quốc, vùng, miền, thành phố. Khả năng đặt lại, tức là xem lại và nghiệm lại các khả năng của lãnh đạo thể hiện cặp thông minh song đôi: một bên là tài năng của lãnh đạo, một bên là đào tạo các công dân thực sự có nhân tri – có nhân trí trong bầu cử, có nhân phẩm trong chọn lựa lãnh đạo. Khả năng này không thấy (tức là không có) trong các chế độ độc quyền, độc tài, độc tôn, độc đảng! Thật tồi tệ khi chưa tới cuộc bỏ phiếu để bầu Quốc Hội giữa năm 2016, lần này với các ứng cử viên tới từ xã hội dân sự, mà các ứng cử viên này đã bị chụp mũ, vu khống là con cờ của các lực lượng ngoại bang: tại sao lãnh đạo của ĐCSVN, thông qua bọn bồi bút, lại có chính tri thấp hèn như vậy trước các công dân muốn trở thành đại biểu để tự nhận trách nhiệm của mình, vì xã hội, vì dân tộc? Nếu dân chủ đủ nội lực để bảo vệ tự do cá nhân, thì chính dân chủ cũng phân tích tới nơi tới chốn chủ nghĩa ích kỷ trong tư lợi của mỗi các nhân, để có đủ bản lĩnh luật pháp hóa quyền tư hữu, định chế hóa qua thuế má cho quyền tự do làm giàu. Cái liêm chính của một chế độ thật sự dân chủ không chấp nhận chuyện đang xảy ra trong bối cảnh tụt hậu về đạo lý như hiện nay trên đất nước Việt Nam, nơi mà con người cúi đầu, nhắm mắt trước thực trạng “ai chết mặc ai”, kẻ nắm quyền thì chế luật nhưng cũng chính là kẻ lén lút xé luật trong hối lộ, tham nhũng; còn kẻ quen biết, cậy nhờ quyền lực thì lách luật trong bóng tối cũng qua tham ô, đút lót. Hối lộ, tham nhũng, tham ô, đút lót là ung thư của mọi chế độ, kể cả chế độ dân chủ, nhưng trong chế độ dân chủ khi dân lên tiếng thì tư pháp phải xuất hiện, đó là diễn biến ngày 15 tháng 4 năm 2016, chỉ một lãnh đạo của Brasil rơi vào hối lộ, mà đã có hơn 8 triệu dân xuống đường, đòi hỏi tư pháp phải xử cho tới nơi, tới chốn, và tư pháp phải hứa trước quần chúng là sẽ xử tới nơi, tới chốn, và sau đó là tổng thống bị truất phế! Chế độ dân chủ của Brasil còn rất trẻ, cơ chế dân chủ của Brasil còn rất mới, nhưng nội công dân chủ của Brasil đã có hùng lực hằng ngày trong sinh hoạt xã hội. Ngược lại, từ ngày ĐCSVN nắm độc quyền chính giới, với bao bất công như “cơm bữa”, với bao bạo quyền như “đi chợ”, vậy mà không có cuộc biểu tình nào tập hợp được 1 triệu dân xuống đường, phản đối bất công, chống đối bạo quyền. Vì trong các chế độ độc quyền, độc tài, độc tôn, độc đảng thì quyền được đòi hỏi công khai bị bóp chết từ trong trứng nước; với chuyện xuống đường biểu tình phản đối, mà mọi người có thể xem trên internet, chính quyền của ĐCSVN sẽ biến bạo quyền thành bạo hành ngay trên đường phố, đi cùng với bạo lực trong tù đày, ngục tối. Trong các cuộc đối thoại, trao đổi, tư vấn tại phương Tây, tôi luôn chống lại các luận điệu của người nước ngoài cho rằng dân Việt Nam không có trình độ dân chủ, sống cho qua ngày vì chuyện “cơm, áo, gạo, tiền” luôn đè rất nặng trên vai, trên lưng họ, khiến họ không đặt dân chủ vào ưu tiên hàng đầu để bảo vệ nhân cách – nhân phẩm qua nhân trí. Tôi luôn đưa ra lập luận là nhân tri phải được thắp sáng hằng ngày bởi chính tri của chính giới: các nước Âu Châu có truyền thống dân chủ lâu đời cũng phải qua con đường chính tri nâng nhân tri, với vai trò thiết yếu của kiến thức, cần thiết của trí thức. Và trong lịch sử của Việt tộc thì chính tri nội kết nhân tri được thể hiện rất rõ qua Hội Nghị Diên Hồng, qua một giai đoạn dài của của hai triều: Lý và Trần. Vì hai đời Lý và Trần này đã có những minh quân thương dân, đã có những minh chủ quý dân, đã có những minh chúa trọng dân, có luôn cả minh sư (Vạn Hạnh) nhìn xa trông rộng, để che chở dân. Như vậy, chính các lãnh đạo của ĐCSVN hiện nay mới bị vướng mắc vào chuyện thiếu trình độ dân chủ, mới bị mắc bẫy vào chuyện “cơm, áo, gạo, tiền” qua hối lộ, tham nhũng, tham ô, đút lót, chớ không phải dân tộc Việt Nam.
Chính đạo nằm ngay trong biểu tượng, vì biểu tượng sống để biểu hiện nội dung của một chế độ, và một chế độ đang suy kiệt luôn dùng các biểu tượng đã bị xói mòn, đã thoái hóa để làm bình phong, khi chế độ đó không còn mang một ý nghĩa chính đạo gì cả trong chính tri hiện nay. Các biểu tượng “ĐCSVN lãnh đạo hai cuộc kháng chiến thần thánh chống hai đế quốc”, “Học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”… từ thuở nào giờ đây luồn lách vào các khẩu lệnh trơn tuột, đánh lừa dân mỗi dịp Tết đến: “mừng đảng, mừng xuân”, khôn quá hóa dại, vì nó chỉ nói lên cái thiếu chính tri trong chính kiến của ĐCSVN. Từ cái biểu tượng quá khứ giờ đã xơ cứng, qua cái hiện tại rỗng ruột trong chính tri, ĐCSVN chỉ bày ra cho thế giới biết cái bí lối, lầm đường của họ. Các chế độ độc tài dùng tuyên truyền như một con dấu ấn vào não bộ nhân tri, họ lầm khi nghĩ là các khẩu lệnh tuyên truyền sẽ là những vết chàm, vết xăm trong trí não dân tộc họ, để họ dễ dàng làm chuyện đánh lận con đen. Trong các nước văn minh có dân chủ, các biểu tượng không hề mang ý đồ tuyên truyền của vết chàm, vết xâm, mà là một tư duy rộng, trong đó biểu tượng sống trong một ngôi nhà luôn mở, đầy dưỡng khí và ánh sáng của chính tri (tự do, công bằng, bác ái), nơi mà nhân tri được quyền sống, sống yên, sống bền, sống lâu trong nhân trí và nhân phẩm. Một biểu tượng đúng luôn có một nội dung đúng! Vì một chế độ thật sự có dân chủ thì phải có một nội dung dân chủ, trong đó nội chất dân chủ bảo đảm nhân lý cho nhân sinh, và có nội lực dân chủ bảo hành nhân trí cho nhân tri. Nội dung dân chủ nằm trong tiến trình tư tưởng dân chủ: một người nếu tự thấy mình có lý, thì phải mang cái lý của mình ra đối thoại để thuyết phục tập thể, để cái có lý trở thành cái đúng lý. Nếu tập thể này được thuyết phục vì cái đúng lý này, thì họ sẽ mang ra để đàm phán với cả xã hội, qua quá trình đa nguyên của đa đảng, qua tiến trình của ứng cử và bầu cử, để biến cái đúng lý thành cái đúng luật, được công nhận từ hiến pháp tới tư pháp, từ pháp luật tới pháp chế. Trong quá trình đó, nội công dân chủ là tiến trình dân chủ hóa luôn đi song hành với tiến trình hiện đại hóa, khi khoa học đã thành công suất trong công nghệ, khi kỹ thuật đã thành năng suất cho truyền thông, để cái đa nguyên luôn được củng cố bởi cái đa năng, cái đa trí luôn được nuôi dưỡng bởi cái đa thức. Trong lịch sử của nhân loại, tiến trình dân chủ hóa luôn kề vai sánh đôi với tiến trình hiện đại hóa, được minh chứng rất rõ trong lịch sử phương tây (Tây Âu và Bắc Mỹ). Và trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, tiến trình dân chủ hóa này được nhiều quốc gia ứng dụng thành công với đặc thù, đặc tính, đặc điểm của dân tộc họ; từ đó làm nên những kinh nghiệm mới, làm ra những mô hình hay, dựng được những nhân lý lành trong môi trường của lý đúng và luật đúng của dân chủ. Không cần tìm xa, chỉ cần nhìn các nước láng giềng của Việt Nam, cùng nôi tam giáo đồng nguyên với ta như Nhật Bản và Hàn Quốc đã ứng dụng thành công, và ta cũng không quên là chế độ dân chủ đông dân nhất thế giới chính là Ấn Độ, một láng giềng không xa mấy của Việt tộc. Cũng phải phân tích sâu hơn là Bắc Hàn và Nam Hàn cùng một dân tộc, cùng một lịch sử, cùng một văn hóa, nhưng lãnh đạo Bắc Hàn bám kiếp độc tài và chế độ của họ hiện nay bị nhân loại nhìn như một quái thai; còn Nam Hàn có dân chủ lại có luôn khoa học kỹ thuật đã thành một nhân tố tích cực cho toàn cầu hóa theo nghĩa tiến bộ nhất. Như vậy, chuyện chế độ quyết định cơ chế dân chủ để một dân tộc được thăng hoa là một chuyện có thật và là chuyện tiên quyết. Nếu đem lịch sử để định niên đại, thì nguyên tắc và kinh nghiệm của dân chủ đã có từ rất xưa trong sinh hoạt chính trị của Hy Lạp, sung lực dân chủ này luôn liên tục hội nhập trong thế thắng tại các quốc gia có văn minh đậm, có giáo dục cao, tức là có nhân tri vững như: Anh, Đức, Pháp…. Còn các chế độ độc tài, lấy nguyên tắc toàn trị để áp đặt trên đầu dân chúng, trên lưng xã hội, mà định nghĩa toàn trị là cướp chính quyền để có toàn quyền, thì các chế độ toàn trị này đã xuất hiện rất trễ, so với các chế độ dân chủ đã có. Các chế độ toàn trị này xuất hiện trong bối cảnh của thế kỷ XX, với suy thoái kinh tế thâm đậm, mang theo những khủng hoảng chính trị sâu sắc, trong đó có chế độ toàn trị của Lênin rồi tới Staline tại Nga sau 1917, có Quốc Xã tại Đức trước 1939, và có Phát-Xít tại Ý, cả hai Đức Quốc Xã và Phát-Xít Ý có cùng sổ bộ đời mà sử học đặt tên chúng là bọn sát nhân bằng thế chiến, và cả ba chế độ toàn trị vừa nêu tên đều có cùng một lý lịch sinh sau đẻ muộn, có cùng một hồ sơ chính trị rất mới mẻ trong lịch sử của nhân loại. Tôi cần đưa ra minh chứng này để gạt đi luận điệu của bọn đầu nậu và bồi bút đang sống quây, sống nhây như ký sinh trùng xung quanh các chế độ toàn trị, chúng rất hồ đồ khi kết luận dân chủ là loại “hàng hóa mới của phương Tây”, để lừa gạt những ai chưa biết rõ về cổ sử, cổ triết, cổ văn của dân chủ. Chính đạo của dân chủ có rễ sâu trong nhân sinh, có cội mạnh trong nhân tính, có nguồn rộng trong nhân lý, có gốc vững trong nhân tri, và nhân gian không lầm đâu!
Nhân tri dắt chính tri (P2)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).

Bình luận về bài viết này