Nhân Quyền-Nhân Trí (P2)

Nhân trí, từ cá thể dân chủ
Phạm trù chính quyền nắm xã hội, đã đi tới phạm trù chính quyền bảo vệ và thăng hoa cá nhân, nhân loại đã hưởng nó từ hơn hai thế kỷ nay, cách mạng dân chủ sánh vai cùng cách mạng công nghiệp, cách mạng khoa học kỹ thuật song hành cùng toàn cầu hoá tri thức và nhân quyền đang hiển hiện trước mắt mọi người, đây toàn là chuyện thực sự, thực tế, thực tiễn; kẻ nào nói ngược lại, không ngoan cố thì cũng thuộc loại cực đoan, không ngụy biện thì cũng thuộc loài lừa đảo. Phạm trù chính quyền bảo vệ và thăng hoa cá nhân, không phải chỉ là hệ vấn đề của cá nhân, mà là lĩnh vực tích cực nhất của định nghĩa về chủ thể, vì ở đây cá nhân không còn đơn thuần là cá nhân, mà đã trở thành tác-nhân-sản-xuất-của-xã-hội, vì chính họ nuôi sống xã hội qua kinh nghiệm, qua kiến thức, qua ý thức, qua chân tài, qua đạo lý của nhân quyền trong họ, để nâng cao xã hội của họ lên. Hai quốc gia có bề dày về cách mạng dân chủ, và cách mạng công nghiệp là Anh quốc và Pháp quốc, có những nhận định khác nhau về vị trí, vai trò, chức năng, quyền hạn của mỗi cá nhân. Tại Anh quốc, Beveridge phân tích rằng: nếu xã hội bị chủ nghĩa cá nhân dẫn dắt, thì chính quyền được phép điều chỉnh lại chủ nghĩa cá nhân đó, vì nó có thể sinh ra chủ nghĩa ích kỷ, và chính quyền có thể điều chỉnh nó vừa qua định chế, vừa qua pháp luật, để cho đời sống xã hội có chỗ đứng cho tập thể, để sinh hoạt xã hội bảo vệ được cộng đồng. Tại Pháp quốc, Jouvenel lập luận khác: nếu trong xã hội đã biết lo cho cá nhân, thì xã hội đó phải chấp nhận có cạnh tranh, có thi đua, có xung đột quyền lợi giữa các cá nhân, chuyện chính là kẻ lãnh đạo phải biết mở con đường tiến thân cho những kẻ có tài. Nếu trong xã hội đã có chuyện bất bình đẳng, thì kẻ lãnh đạo nên nhu thuận theo trình độ của mỗi tầng lớp xã hội mà bảo đảm tốt chuyện gặt hái các thành quả xã hội của họ theo hướng đi lên, để mỗi tầng lớp xã hội này được đổi kiếp của họ theo hướng cao đẹp; thâu chuyện bất bình đẳng nhỏ dần, ngắn dần, để chuyện bất bình đẳng không thành hố sâu không lấp được trong xã hội. Muốn làm được việc này thì phải bảo đảm được vấn đề công ăn, việc làm; cùng lúc lo đầy đủ vấn đề bảo hiểm xã hội. Những kẻ lãnh đạo bất tài thường viện ba cái cớ để không làm các việc mà Beveridge và Jouvenel đã phân tích, cớ của họ là : «nói dễ, làm khó», «lực bất tòng tâm», «cái khó bó cái khôn», nhưng những kẻ này lừa người chưa được nên vội lừa mình, vì sao? Vì nhân quyền có nội dung lý luận thực tiễn của nó, vì nhân trí có tiềm năng diễn luận thực tế của nó. Chính quyền được sinh ra từ thượng nguồn là để bảo an lãnh thổ quốc gia, nhưng muốn tồn tại trong chính nghĩa thì chính quyền đó phải có kiến thức để làm ra luật, vừa bảo vệ tiền đồ của dân tộc, vừa bảo đảm sự phát triển của xã hội, cho nên chính quyền vừa là nền móng quốc phòng, cũng vừa là động cơ của nhân trí trong mọi chính sách phát triển. Nhưng có chính quyền khôn và có chính quyền dại, một chính quyền khôn là một lực lượng lãnh đạo xem dân tộc mình không phải chỉ là một tập hợp dân chúng đồng loạt «cá mè một lứa», mà là tổng thể thông minh của những chủ thể sáng tạo, «mỗi người, mỗi vẻ», đủ trí tuệ để sử dụng lao động của mình với kỹ thuật tinh tế, đưa năng xuất lên cao, đưa hiệu xuất vào rộng trong sản xuất. Như vậy nhân quyền đã được định nghĩa ngay trong lao động, đây không phải là chuyện hư ảo, mà là sự thực, giờ đã thành sử của nhân loại: các dân tộc thành công trong chuyện này, họ có văn minh vì có dân chủ; họ có tiền của vì có tiến bộ. Khi phân tích về các dân tộc thành công này, các chuyên gia tìm thấy có ba nội chất nhân quyền trong nhân trí của họ: biến lý trí thành hiệu năng, biến bình đẳng thành đạo lý, biến tự do thành chính sách; ba động lực này đủ sức vừa đẩy lùi được nghèo nàn, lạc hậu, vừa dẹp bỏ được mê tín, dị đoan. Các xã hội thành công này luôn có các chính quyền tôn trọng cá nhân, trước hết là họ biết giáo dục về ý thức cho mỗi cá nhân, một ý thức có bổn phận với cộng đồng, có trách nhiệm với tập thể, dùng tự do của mình để sáng tạo, đưa xã hội vào hướng hay, đẹp, tốt, lành. Như vậy, nhân quyền đã được trợ lực bởi nhân trí, nơi mà mọi người được sống trong một không gian vừa có cá nhân tính, vừa có xã hội tính, không lạc lõng trong cơ chế, không mồ côi trong định chế; vì chính quyền của họ khi nắm quyền lực đã biết tin tưởng và trao truyền được các kiến thức văn minh cần thiết tới mỗi cá nhân, để cá nhân được sáng tạo trong lao động với tư cách của chủ thể. Chủ thể khi hành động với kiến thức và ý thức, tức là chủ thể đó đã vào đúng quỹ đạo tiến bộ của nhân loại, và cá-nhân-quyền đã nhờ «an cư lạc nghiệp» nên đã tạo ra được tiền đề cho chuyện «trong ấm, ngoài êm» cho chính quyền. Một chính quyền khôn đủ lực để đưa cá nhân ra khỏi không gian của chủ nghĩa bản năng «ăn tươi, nuốt sống», ngày càng tới gần với không gian của ý thức «ăn coi nồi, ngồi coi hướng». Các dân tộc thành công chuyện này là nhờ chính quyền của họ đã xây dựng được một nội dung nhân quyền qua cá thể xã hội, một cá thể biết chấp nhận, biết tuân thủ, biết bảo quản các quy định của tập thể, của cơ chế, của luật pháp. Đào càng sâu vào các thành tích về văn minh, sới lên các thành quả về nhân quyền của nhân loại, chúng ta phải nhận diện rõ một nội lực khác của nhân tính là sự cùng hợp tác, như một tổng lực, từ cá nhân tới gia đình, từ tập thể tới cộng đồng, từ công đoàn tới đảng phái… trong tất cả các sinh hoạt xã hội, trong bối cảnh một sự vận hành lớn của nhân sinh. Cùng hợp tác trong sản xuất để cùng chia sẻ trong thành công, «đồng hội, đồng thuyền», đây vừa là chỗ dựa, vừa là sức bật của nhân quyền. Thực chất thì đây là sức mạnh «quang minh chính đại» của dân chủ, vì dân chủ là một thể chế độc nhất của con người với đúng tên gọi «đường đường chính chính» của nó, vì tên gọi của nó dựa trên « luật chơi, trò chơi và sân chơi » của chính nó tạo ra, từ ứng cử tới bầu cử trong một tam quyền phân lập, có định kỳ và có kiểm tra. Những ai đã sống trong các thể chế dân chủ nhận ra rất rõ cái trò «lập lờ đánh lận con đen» của các chế độ độc tài, độc đảng, không dân chủ mà dám nói mình là dân chủ, thì chỉ là loại «ăn gian, nói dối». Sự xúc phạm trắng trợn nhất cho Việt tộc hiện nay là cái bệnh hoạn của hiến pháp nhập nội với cái ung thư của lập pháp. Điều 4 trong hiến pháp áp đặt ĐCSVN là lực lượng duy nhất lãnh đạo dân tộc Việt Nam, mà hiện đang bị các liên minh nhân quyền thế giới xếp hàng đầu trong các hiến pháp phản nhân quyền nhất của nhân loại, thể hiện cùng cái ung thư lập pháp, để biến cái độc đảng trong hiến pháp thành cái độc quyền trong Quốc Hội, một xảo thuật để biến 10% số lượng đảng viên trong tổng số của dân tộc của một đất nước gần một trăm triệu dân, để giữ hơn 90% số ghế dân biểu trong quốc hội; một chuyện không thể có trong một chế độ thực sự dân chủ. Chúng ta ước mơ cho Việt tộc một điều: một cá thể xã hội trọn vẹn và thông minh, đầy đủ và sáng suốt phải là một cá thể dân chủ thực sự.
Đề nghị 2. Nhân trí từ cá thể dân chủ phải được ghi nhận và thực hành được từ hiến pháp tới luật pháp, từ giáo dục tới lao động, từ kinh tế tới chính trị… phải được chính quyền, chính phủ, công nhận từ hành chính tới định chế, từ đào tạo tới bổ nhiệm, từ bầu cử tới truyền thông…trong một hệ đa nguyên được bảo đảm từ hiến pháp tới lập pháp, từ tư pháp tới công pháp, từ chính quyền tới pháp quyền.

Nhân Quyền-Nhân Trí (P3)

Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).

Bình luận về bài viết này