Chỉ có một kiếp để làm người -trước và trong- cũng chỉ một cuộc đời, chúng ta muốn gì? Chúng ta muốn nhân quyền mở cửa đón nhân trí, rồi nhân trí nắm tay dắt nhân quyền đi xa về hướng lành, đi rộng vào hướng tốt, đi sâu vào hướng hay, và đi cao lên vào hướng đẹp. Nhân quyền không phải là một đường lối chính trị, cũng không phải là một ý thức hệ, nó cũng chẳng phải là một đặc sản văn hoá của phương Tây; nó là lõi của nhân phẩm, rể của nhân đạo, cội của nhân tâm, nguồn của nhân tính, không có nhân quyền làm nội dung thì tất cả những định nghĩa về: nhân phẩm, nhân đạo, nhân tâm, nhân tính, nhân lý, nhân đạo, nhân nghĩa… đều là những định nghĩa thiếu sót, hụt hẫng, què cụt, thui chột…. Nhân quyền là nội công của nhân trí, nhân trí là bản lĩnh của nhân quyền; mọi chính quyền, mọi chính phủ, mọi đảng phái, mọi lãnh đạo không tôn trọng nhân quyền không những phản lại: nhân tâm, nhân lý, nhân đạo, nhân tính, mà phản lại luôn cả tiến bộ và văn minh. Nhân quyền cũng không phải là một lý thuyết đúng để chỉ đưa nó vào hiến pháp một cách mơ hồ, để đó rồi quên đó, mà nó là chuyện thực tiễn hàng ngày từ giáo dục tới bảo hiểm xã hội về sức khoẻ và y tế, từ chuyện tự do phát biểu tới chuyện tự do truyền thông, tự do theo nghĩa thực nhất, sâu nhất, rộng nhất, cao nhất, dày nhất, tức là theo nghĩa thông minh nhất. Ý lực của nhân quyền còn nằm ở một chỗ khác: không có nền tảng của nhân quyền thì mọi định nghĩa về lòng yêu nước sẽ mất chỗ dựa, đòi hỏi người ta hy sinh để bảo vệ Đất Nước, mà không bảo vệ nhân quyền của người ta thì chỉ là trò lừa đảo, xảo trá. Ý lực của nhân quyền là một sức mạnh thật sự, và nó hướng dẫn các lý luận, các lập luận, các diễn luận của tiểu luận này, và tác giả còn xin được đi xa hơn: không có nhân quyền thì chắc chắn là nhân cách sẽ bị đe doạ, rồi hư hao, dẫn tới què quặt, nếu nhân cách được định nghĩa theo nhân phẩm, vì chính nhân phẩm làm ra phong cách cho một cộng đồng, làm ra tư cách cho một cá nhân. Như vậy đừng nói nhân quyền là chuyện viển vông, nó là chuyện của thân, của tâm, của trí trong mỗi cá nhân; là chuyện đạo lý và luân lý của một quốc gia; vì nhân quyền là phương hướng chủ đạo của kiếp làm người, muốn làm người thì phải loại ra khỏi môi trường của nhân sinh của mình cái kiếp «nửa dơi, nửa chuột», «người không ra người, ngợm không ra ngợm». Như vậy, nhân quyền là phẩm của nhân, nó là tri của tâm, nó là lý của trí. Đối với người Việt Nam chúng ta, nhân quyền là một phạm trù tri thức của hệ liên kết: vừa của cả Việt tộc, vừa của mỗi người Việt, tất cả người Việt sống trong và ngoài xã hội Việt. Muốn có nhân quyền thì phải đấu tranh, nhưng thực chất của một xã hội có nhân quyền là một xã hội bảo đảm sự an toàn cho mọi người, từ sức khỏe tới trường học, từ tự do tới bình đẳng, mà an toàn được hiểu theo nghĩa bảo toàn, bảo an, bảo đảm. Điều này rất rõ trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân quyền năm 1948, điều 22, của Pháp, quê hương khai sinh hai cuộc cách mạng cho nhân sinh-cách mạng dân chủ và cách mạng nhân quyền: «Mỗi người là một phần tử của xã hội được quyền hưởng mọi bảo hiểm xã hội». Hiện nay, lực lượng lãnh đạo nào quên câu này là có lỗi, đảng phái nào muốn xoá bỏ nội dung này là có tội với dân tộc, với đất nước họ.
Nhân quyền, từ nhân tâm lãnh đạo
Trong một quốc gia mà chính quyền thực sự muốn «xoá đói, giảm nghèo», tức là chính quyền đó muốn xoá các vết chàm, vết thẹo, vết bẩn của dân tộc đó; Nhật Bản đã làm được, Hàn Quốc đã làm xong, Trung Quốc đã làm được thật mạnh và đang thành công trong ba mươi năm qua, Việt tộc cũng nằm trong khu vực văn hoá Tam giáo đồng nguyên như họ, vẫn chưa làm được, tại sao? Chỉ có hai giả thuyết hợp lý: một là dân ta kém, hai là lãnh đạo sai. Hai giả thuyết nhưng thật sự chỉ có một câu trả lời: nếu một dân tộc kém mà lãnh đạo giỏi, thì lãnh đạo phải làm cho dân khôn lên, khá lên, như vậy mọi chuyện đường lối trên đời này đều từ khả năng lãnh đạo mà ra. Vì, muốn thắng «xoá đói, giảm nghèo», thì phải thắng cho bằng được «nghèo nàn, lạc hậu», bằng nhân trí, vì nếu nhân trí mà loại được lạc hậu, thì nó sẽ khử luôn nghèo nàn. Muốn lãnh đạo thì phải có nhân trí của nhân lý. Trí của lý là trí «nhìn xa, trông rộng», trí của cái khôn (người khôn chưa đắng đã đo, chưa ra tới biển đã dò nông sâu), đây là định nghĩa dành cho chữ trí của những người muốn lãnh đạo. Không có lập luận này rõ ràng trong tư duy lãnh đạo thì đừng lãnh đạo! Hãy cụ thể hoá tiền đề này, vì tiền đề này không rõ trong đầu của một số lãnh đạo hiện nay: một lực lượng muốn lãnh đạo một quốc gia, của một dân tộc, thì trước hết phải biết làm cho được chuyện lãnh đạo một xã hội; một chính quyền trong thực tế hàng ngày, trước hết là một chính quyền đối với một đời sống xã hội, đối với tất cả sinh hoạt xã hội. Vì xã hội là chân tướng của một quốc gia, hình hài của một dân tộc. Tên gọi của chính quyền đó đã có hơn một thế kỷ nay: «Welfare State», «Etatprovidence», một chính quyền biết bảo trợ dân nghèo, biết bảo đảm an toàn lãnh thổ, biết bảo an công bằng xã hội. Bảo trợ, bảo đảm, bảo an bằng đường lối chính trị lãnh đạo của mình, tức bằng trí của mình. Bảo trợ, bảo đảm, bảo an tức là bảo hiểm. Chính quyền phải làm công tác bảo hiểm cho toàn xã hội, thì ai sẽ làm bảo hiểm cho chính quyền? Người bảo hiểm cho chính quyền chính là chân lý của nhân quyền, biết dùng nhân trí để lập ra nhân đức, giờ đã là một tổng thể nhân-trí-đức, sẽ thể nghiệm, sẽ kiểm nghiệm, sẽ xử lý mỗi cá nhân lãnh đạo qua tiêu chuẩn nhân-trí-đức của nó; tất cả được gạn lọc đầy đủ từ ứng cử tới bầu cử, được kiểm soát toàn bộ qua công pháp và tư pháp, cơ chế này có tên gọi là dân chủ, anh (chị) em sinh đôi với nhân quyền. Đây không phải chỉ là chuyện của Việt Nam, mà là chuyện của tất cả các chính quyền đang có mặt trên mặt đất này. Như vậy công cụ chân chính của một chính quyền biết bảo trợ, bảo đảm, bảo an, bảo hiểm cho xã hội là gì? Thứ nhất là dùng công cụ bảo hiểm qua luật pháp và định chế, cùng lúc có các chính sách bảo trợ vĩ mô, từ kinh tế tới giáo dục, từ tài chính tới y tế…. Thứ nhì là dùng công cụ bảo hiểm qua quy định của tự do được tạo ra từ ba thế quân bình của nhân quyền: bảo đảm tính mạng và tương lai của mỗi cá nhân tức là mỗi thành viên trong xã hội; chính sách bảo trợ xã hội dựa vào sự đóng góp của toàn xã hội, làm nền tảng cho ngân sách quốc gia; chính sách lãnh đạo bảo vệ quyền lợi của cá nhân, kể cả những biến cố xấu có thể tới với cá nhân này, bằng các định chế tương trợ, trong đó y tế và kinh tế đóng vai trò bảo hộ. Cả ba công cụ chân chính này đều bị xoá mờ trầm trọng trong xã hội việt nam hiện nay, vì nó bị đục khoét hằng ngày từ trong trứng nước bởi ba tệ nạn: tham nhũng, hối lộ, bè đảng; ba tệ nạn này như trọng bệnh, lại còn đeo theo ba ung thư: lãnh đạo không tôn trọng nhân tâm, chuyên môn không tôn trọng nhân trí, công an không tôn trọng nhân quyền. Trí lực của một chính quyền là dùng tài lực của xã hội để bảo vệ cá nhân, đây là một định nghĩa sắc nhọn của phạm trù nhân quyền; xã hội như vậy không còn là một cộng đồng mộng tưởng, một tập thể huyền ảo mà là chỗ dựa cho mọi cá nhân, từ một chính quyền biết dùng tài sản xã hội để bảo trợ cho mỗi thành viên, mỗi cá nhân. Xã hội từ một định nghĩa mơ hồ, giờ đã là xã hội cụ thể của mỗi cá nhân và của tất cả các cá nhân (société des individus). Nếu không còn những đe doạ về sinh mạng, sức khoẻ, bệnh tật, thì xã hội đó sẽ đi về hướng hay, đẹp, tốt, lành, ngày càng văn minh, cho nên định nghĩa nhân quyền được nâng lên cao một bậc nữa, và nhân trí kích thích được chuyện này: không những bảo hiểm cho mỗi cá nhân, mà còn phải lo phát triển năng khiếu, tiềm năng của mỗi cá nhân. Và nếu khai thác thành công năng khiếu, tiềm năng này, thì chính mỗi cá nhân sẽ phục vụ khôn ngoan hơn, sẽ đóng góp tốt lành hơn cho xã hội của họ, cho gia đình của họ, cho định chế của họ. ĐCSVN tự cho độc quyền bảo vệ giai cấp công nhân, nhưng thực tế hàng ngày thì đàn áp giai cấp này một cách thô bạo nhất từ các cuộc biểu tình chống bóc lột, đòi hỏi an toàn lao động, chống lại các chính sách thụt lùi mới về bảo hiểm xã hội. Cấm các công đoàn tự do sinh hoạt cùng lúc bắt bớ các lãnh đạo của các công đoàn tự do của ĐCSVN là một hành vi phản nhân quyền mà hằng ngày các hội đoàn nhân đạo báo cáo thường xuyên với các hội đồng của Liên Hiệp Quốc. Thậm tệ nhất cho Việt tộc là ĐCSVN đã đàn áp công nhân bằng phản xạ «thượng đội, hạ đạp», đội lên các tập đoàn ngoại quốc mà họ nhận hối lộ, trong đó đa số là Trung Quốc, đạp xuống nhân quyền của đồng bào lao động của họ, những nhận định này rất rõ trong các kết quả điều tra quốc tế về quyền lao động trên đất nước này. Những tên bồi bút, những kẻ đang xuyên tạc cho rằng nhân quyền là «diễn biến hoà bình là ý đồ xấu của phương Tây»; họ có biết là họ tục, tệ, tồi như thế nào không trước thế giới và trước nhân cách giáo lý của Việt tộc? Những kẻ này không bao giờ đủ can đảm xuất hiện trong các hội nghị, hội thảo, hội đàm cấp quốc tế để lý luận, để lập luận, để diễn luận rõ ràng quan điểm của họ, họ rất sợ lộ chân tướng gian, xảo, lừa lận của họ trước thế giới, trước tiến bộ, trước văn minh. «Diễn biến hoà bình» là một cụm từ vô nghĩa nếu không lấy nó ra mà tranh luận cho tới nơi tới chốn; nếu sử dụng ngữ văn loại này để chụp mũ, vu khống, thì tự biến cái khốn nạn của ngữ pháp thành cái khốn kiếp của kẻ giật dây nó, khi muốn «gây oan, giá hoạ» cho kẻ khác, biến cái khuyết tật của một tư duy vô minh «gà què ăn tựa cối xay», thành cái tư cách vô tri «khôn nhà, dại chợ» của mình. Không có tư cách thì làm sao có nhân cách, không có nhân cách thì làm sao hiểu, thấu, tiếp, nhận, để thương nhân quyền được. Khi bọn người này còn xum xeo xung quanh các bộ máy lãnh đạo độc đảng, độc tôn, độc quyền, thì Việt tộc ta bao giờ có nhân trí? Bao giờ được hưởng nhân quyền? Nhưng nhân quyền có thể tới từ nhân tâm lãnh đạo!
Đề nghị 1. Nhân quyền từ nhân tâm lãnh đạo: chính các lãnh đạo của ĐCSVN phải tìm lối ra bằng cách cho nhân quyền và nhân trí một định nghĩa cao đẹp nhất, tức là đầy đủ nhất và thông minh nhất để đưa xã hội Việt Nam vào hướng tiến bộ, dân tộc vào lối văn minh, theo lẽ phải của toàn cầu hoá hiện nay, chỉ có cách này mới tránh được xung đột trong xã hội và nội chiến trong dân tộc.
Nhân Quyền-Nhân Trí (P2)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).