Nhân Tâm-Niềm Tin (P8)

Niềm tin, tỉnh ngộ
Trần Dần, thi sĩ không nguôi bất khuất, đứa con tin yêu của chân lý nhân tâm, thi pháp toả sáng giữa bóng đêm bạo lực, một con tàu nhân tính đơn côi trong lòng muôn hải lý nhân sinh, luôn nhắc chúng ta phải hàng ngày canh giữ nhân tâm: “Bỗng nhói ngang lưng, máu rõ xuống bùn. Lưng tôi có tên nào chém trộm… Ôi cả nước! Nếu mà lưng tê lạnh. Hãy nhìn xem: có phải vết dao?… ”. Bọn người phản bội không những là bọn “chó cắn trộm” như ông bà ta đã dặn dò con cháu, mà chúng còn có thể nhẫn tâm chém trộm, chúng sẵn sàng giết người vì tư lợi. Trong nhận định các dạng thể hiện của cái lý, Kalberg thấy xuất hiện hai loại lý, loại thứ nhất được điều khiển bởi giá trị, loại thứ hai được điều khiển bởi cứu cánh của tư lợi, như vậy một niềm tin có giá trị đạo lý thuộc loại thứ nhất, và chúng ta phải luôn luôn cẩn trọng với loại thứ hai, vì nó có thể núp sau lưng, hoặc núp ngay trong lời lẽ tốt lành của loại thứ nhất để giật dây, để thao túng, để tha hoá các niềm tin có giá trị đạo lý. Đối với loại thứ hai này, với nhân cách giáo lý Việt tộc, ông cha ta đã lột mặt nạ nó, đó là loại không những “thừa nước đục thả câu” mà còn tồi tệ hơn nữa trong cách ứng xử “mượn đầu heo nấu cháo”; chúng luôn khai thác tình huống “đục nước béo cò” với cái ích kỷ thấp hèn của chúng “ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau”. Các thành viên của Việt tộc thân yêu: niềm tin nhận trách nhiệm, còn tư lợi chỉ tìm lời; niềm tin kham bổn phận, còn ích kỷ tránh trách nhiệm các bạn à. Khổng giáo hiểu rõ chuyện này trong hệ vấn đề trật tự: quân, sư, phụ, ở đây tri thức của sư vừa làm nền, vừa làm cầu nối giữa quân và phụ, tri thức chuyển tải không những kiến thức của luân lý, của đạo lý, mà còn là chiều cao của tâm linh trong lịch sử của một dân tộc. Có ba nguyên tắc về đạo lý khi con người chuẩn bị các hành động của mình: nguyên tắc về giá trị và quyền lợi phải bình đẳng cho mỗi cá nhân, nguyên tắc bình quyền trước của cải của mỗi cá nhân, nguyên tắc chống bất công bằng luật pháp cụ thể. Chỉ cần hiểu rõ ba nguyên tắc này là chống được chuyện hối lộ tham nhũng của các lãnh đạo hiện nay, tránh luôn được chuyện công an uy hiếp nhân quyền, loại được luôn phản xạ tranh giành quyền bính trong việc tổ chức chính quyền. Khi nghiên cứu về thể chế của dân chủ, Tocqueville có nhận định là giá trị của niềm tin không phải luôn luôn là một chọn lựa hoàn toàn duy lý, cá nhân có yêu thích khác nhau trước các định đề của dân chủ và cộng hoà: công bằng, tự do, bác ái, người này thích cái này, thì người khác thích cái khác, đa nguyên về giá trị là bản chất của dân chủ, chính cái đa nguyên khi nhập vào quan hệ xã hội với danh chính ngôn thuận của nó dựa trên ích lợi chung của tập thể, giúp ta hiểu được là xung đột về quyền lợi luôn luôn có, nhưng cũng luôn luôn được trọng tài bởi nguyên tắc ích lợi chung của tập thể. Luận thuyết công lý của Rawls từ nửa thế kỷ qua làm sáng tỏ chuyện này: mỗi cá nhân có quyền như nhau trước hệ thống pháp luật với quyền tự do căn bản được pháp luật công nhận và bảo vệ. Quyền tự do căn bản này là mặt bằng của tất cả nguyên tắc của công lý, mọi người như nhau về tự do, về quyền lợi. Chuyện đặc quyền, đặc ân, đặc lợi cho đảng viên trong khi bổ nhiệm nhân lực do ĐCSVN độc tôn, độc trị, độc ban bố là chuyện hoàn toàn bất bình thường và bệnh hoạn không những đối với dân chủ và cộng hoà, mà cũng đối với công lý và pháp luật; vì nó đi ngược lại cái công bằng trong chuyên môn, chuyên ngành, chuyên nghề lúc bố trí nhân sự, thậm chí nó còn chống lại nhân lý và nhân trí. Một phán đoán có nhân lý là một phán đoán rất cụ thể dựa trên một nhân trí rất dễ hiểu là: muốn người ta tôn trọng mình thì mình phải tôn trọng người ta, như vậy nhân phẩm mới có chỗ dựa là nhân đạo. Arendt đề nghị luôn trong triết học chính trị là luật pháp phải bảo vệ chúng ta trước các bất công tới từ kẻ khác, và phải bảo vệ luôn tất cả kẻ khác trước các bất công tới từ chúng ta. Các lãnh đạo của ĐCSVN, các đại biểu Quốc Hội, các chức trách của bộ công an phải nghiệm, phải niệm, phải suy về điều này, vì khi tự cho mình đặc quyền, đặc ân, đặc lợi là đã tạo ra bất công, đã diệt niềm tin của dân tộc đối với mình. Một chế độ bất công là một chế độ tự cho phép mình làm ba việc bất chính dưới ba chiêu bài: lý lẽ của nhà nước (raison d’Etat), luân lý giáo điều của chính quyền (moralisme d’Etat), lập luận của chủ nghĩa phụ quyền (paternalisme d’Etat). Khi Stuart Mill phân tích về tự do, ông yêu cầu tất cả chính quyền phải xem tự do là nguyên tắc của đạo lý: “Không khó gì để ta chứng thực được, bằng nhiều thí dụ, khi ta nghe nói về sự cấm đoán của một loại công an luân lý, khi tự do vô cùng chính đáng của cá nhân bị chà đạp, tự do này là một nhân quyền phổ biến nhất của nhân loại”. Đi làm cách mạng vì muốn đòi tự do cho mình, khi cướp được chính quyền thì chà đạp lên tự do của kẻ khác, của dân tộc, hỏi sao dân tộc không mất niềm tin nơi mình! Tự do là nội công của niềm tin, niềm tin là bản lĩnh của tự do.
Tất cả mô hình luân lý chính quyền đều bất chính nếu các mô hình trọng ta mà không trọng người; bắt kẻ khác theo luật chơi của mình, mà không cần biết là đạo lý của người khác có thể công bằng hơn, công lý hơn, tức là thông minh hơn mình, là một loại vô minh nguy hiểm. Nếu yêu cầu kẻ khác tôn trọng giá trị của mình thì mình phải thể hiện đầy đủ là mình hiểu, mình thông, mình thấu các giá trị của kẻ khác; còn chưa hiểu cái hay, đẹp, tốt, lành của kẻ khác, thì ít ra cũng phải hiểu một cái mà trong đạo đức học gọi là: đạo lý tối thiểu (éthique minimaliste), tức là tuyệt đối không hãm hại, không quấy nhiễu, không trù dập, không đè nén kẻ khác. Còn muốn hiểu đạo lý tối đa (éthique maximaliste), cũng rất dễ: phải thương dân chúng đang đói nghèo, phải giúp người khác trong hoạn nạn, phải nâng đỡ đồng loại trong khó khăn. Xã hội học phân định rõ có hai loại người trong xã hội vắng niềm tin, rỗng lòng tin: loại cá nhân nguyên tử (atomistes) nhỏ như nguyên tử, thì sống trong xã hội chỉ để thực hiện các tư lợi của mình; loại cá nhân tụ đàn (holistes) sống và giao số phận mình cho đám đông định đoạt. Từ xa xưa trong cổ triết Hy Lạp, Aristote đã phân tích rành mạch là: nếu niềm tin là cơ sở của đạo đức, thì trong đạo đức luôn có một phần cảm xúc, phần này là thiết yếu vì có cảm xúc, tức là đã có cảm nhận về nhân đạo, cảm động về nhân tâm; cho tới nay những nhà tư tưởng hiện đại vẫn đồng ý với cách diễn luận này. Một niềm tin đúng luôn được kèm theo một tình cảm luân lý đúng, cả hai tạo điều kiện tốt cho nhân sinh đi vào hướng nhân phẩm. Như vậy khi ta xét nghiệm về cái đạo của đức, thì ta phải công nhận là có một nhân lý bắt buộc ta tôn trọng của công và sẵn sàng hy sinh của tư. Khổng giáo còn nói rõ hơn: có chức phải có đức. Chỉ cần một câu này, và nếu thực hiện một cách thành thực và liêm sỉ là sẽ vệ sinh hoá, sạch sẽ hoá được ĐCSVN. Niềm tin được xây dựng vừa trên ý thức của xã hội, vừa trên ý thức của luân lý, chuyện đầu tiên là cái lý về chủ quyền: các của cải trong xã hội, các tài nguyên trên đất nước là của chung của dân tộc, không phải của riêng tôi, và nó sẽ không bao giờ là của tôi nếu tôi muốn trao truyền các của cải, các tài nguyên của đất nước này cho các thế hệ mai sau, như tổ tiên của tôi đã làm cho thế hệ chúng tôi. Cái lý chủ quyền về của chung, giúp cho tôi sống chung được với đồng bào tôi, giúp mọi người bảo vệ được công bằng, và bảo trì được công lý; tức là bảo đảm được niềm tin. Ngược lại cái bất công sinh ra cái bất bình, không chóng thì chầy sinh ra cái bất nhẫn, nạn nhân của bất tín, lúc đó niềm tin đã bị nạo rỗng, nhường chỗ cho sự vùng dậy để đòi lại nhân phẩm, sự vùng lên để lấy lại nhân tâm. Thẳng lưng vùng dậy để chống bất công luôn lấy năng lượng đấu tranh từ trong chuyện xây dựng lại niềm tin.
Gần đây, trong nhân gian ta, ngoài đường trong phố, cũng như các chuyên gia quốc tế đang theo dõi tình hình Việt Nam, có cùng nhau một nhận định và đã biến nó thành bi kịch diễn luận về tình hình đất nước ta hiện nay: “Theo Trung Quốc thì còn Đảng, nhưng mất Nước; theo Mỹ thì còn Nước, nhưng mất Đảng”. Câu này, tưởng có tri giác nhưng thật ra vẫn mờ ảo vô minh, tưởng minh bạch nhưng vẫn bày biện vô tri. Theo Trung Quốc thì mất Nước là chắc rồi, nhưng Đảng cũng không còn, nếu một Đảng mà chỉ có phản xạ “quỳ lạy để triều cống” thì không phải là một Đảng mà chỉ là một nhóm Việt gian. Theo Mỹ nếu Mỹ đúng, nếu Mỹ có cách hỗ trợ Việt Nam đúng từ chính trị tới quân sự, nếu lương tri người Mỹ đồng thuận với nhân tâm Việt tộc, cả khi Mỹ đặt vấn đề nhân quyền, thì đây là cách đặt vấn đề đúng, vì vấn đề nhân quyền không phải là của riêng Mỹ, mà là chuyện của cả nhân loại văn minh hiện nay, vì nhân quyền là nhân trí, là nhân đạo, là nhân tâm là nhân chủ. Vào cuối thế kỷ qua, khi biết tôi đi lần mò nghiên cứu sử học về chuyện “triều cống” của Việt tộc trong suốt quá trình giữ nước của tổ tiên ta, chỉ vì ta muốn sống hoà bình, yên nước, yên dân, trước ý đồ xâm lăng thường xuyên của Hán triều, ông cha phải nhận “lệ triều cống”, tôi muốn hiểu rõ cách “dựng cảnh, theo tuồng” trong vở kịch khó chấp nhận đối với nhân cách giáo lý Việt tộc, có lần bác Hoàng Xuân Hãn giải thích với tôi: “Khi qua tận thủ đô Trung Quốc để làm việc triều cống, thì vua Tàu ngồi trên, đoàn sứ giả ta vừa phải ngồi dưới, vừa phải ở thế quỳ lạy để dâng tặng các đồ vật triều cống. Nhưng ông cha ta dặn nhau là khi phải quỳ lạy, thì bày ra bài vị của tổ tiên ta, đặt ở kế bên, và chỉ quỳ lạy hướng bàn thờ, vong linh tổ tiên ta mà thôi, không quỳ lạy về phía vua Tàu”. Các trí thức, các sinh viên, các thanh niên, các chính khách sắp lãnh đạo đất nước này trong tình thế hiện nay nên nhớ là: từ nay chúng ta cũng vậy, sẽ không bao giờ quỳ lạy trước bất cứ một cường quốc, một ngoại bang nào!
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).

Bình luận về bài viết này