Niềm tin, nhân lý
Quang Dũng, dòng suối êm ả nhưng bền bỉ chảy qua bao địa danh của Việt tộc, cũng là đôi mắt sâu thẳm của thi ca nhìn thấu mọi địa lý của quê hương có lúc phải thành chiến trường của bọn thực dân thế kỷ vừa qua, gửi niềm tin của mình trong chiến dịch Tây Tiến, hẹn ngày về lại thủ đô thân yêu, như hẹn với chính niềm tin của mình, trong bài Sông Mã: “… Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm…” Tin là tin vào một cái lý, rồi biến lý lẽ thành lý tưởng, có nội công của ước vọng, có bản lĩnh của hoài bão. Khi niềm tin đã có chỗ đứng trung tâm trong tư duy, con người chấp nhận thử thách; như vậy quá trình nuôi niềm tin vẫn là quá trình duy lý hoá nhân sinh quan của mỗi người trong chúng ta, muốn đưa cuộc sống thăng hoa. Trong thử thách những lý lẽ vững nhất sẽ biến thành nhân lý, sống sót qua trầm luân, những lý lẽ vững nhất này sẽ vừa là kết luận của nhân sinh quan, vừa là chỗ dựa cho mọi thế giới quan, từ đó làm nguồn cội của mọi hành động. Một niềm tin không phải là một mô hình cứng ngắc như một khuôn bánh, mà nó linh động, luôn tìm cách hoàn chỉnh hoá, khi lúc nó được gặp gỡ các niềm tin khác, có thể hay, đẹp, tốt, lành hơn nó. Việt tộc ta hãy nhìn hàng xóm láng giềng để học họ. Sức mở của toàn cầu hoá là sức mạnh của thế giới hoá niềm tin, một bối cảnh vô cùng thuận lợi để ta trau chuốt các niềm tin đã có nơi ta, kiến thức mới mỗi ngày tới ồ ạt qua các mạng truyền thông, dẫn theo không những các kinh nghiệm lành, các sáng tác đẹp, các tri thức tốt, các khám phá hay của nhân loại, hãy chế tác chúng thành năng lượng của nhân tâm Việt tộc, hãy dựa vào sức mạnh mới nhân chủ (dân chủ của dân chủ) của toàn cầu hoá để hiện đại hoá nhân tâm (nhân tính của nhân tính), để chuyển hoá chính mình, từ xã hội qua môi trường, từ trí tuệ tới sáng tạo. Niềm tin là thượng nguồn trong mọi sáng tạo của tư duy, hãy biến nó thành sáng tạo ngay trong cuộc sống của dân tộc ta, đẩy nó lên cao theo chiều hướng tốt đẹp của nhân phẩm. Các trí thức của Việt tộc nên tâm nguyện rằng niềm tin còn là một biểu đồ dựng nên một hệ thống tri thức hướng dẫn mỗi cá nhân trong quan hệ xã hội, mà các quan hệ xã hội này ẩn tàng những đồ án tương lai của dân tộc; và những đồ án này nếu được công nhận là hay, đẹp, tốt, lành, thì chúng sẽ trở thành một hệ thống của đạo lý, mặc dù luật pháp và chính trị không nhắc gì tới chúng, cũng chỉ vì không theo kịp chúng. Chưa là thực tế của xã hội, nhưng niềm tin đã trở thành một loại tình cảm luân lý, với niềm tin vững vàng được hỗ trợ bởi các giá trị, không cần phải tuyệt đối duy lý, vì niềm tin này được trợ lực bởi một giá trị vô song khác: nhân phẩm, làm người một cách toàn diện nhất, làm người một cách cao đẹp nhất. Habermas, nhà triết học giải thể được các hiệu lực của truyền thông, nhà xã hội học giải mã được các hiệu quả của đối thoại, đứa con yêu quý của học thuật Đức, một quốc gia ngày càng vắng bóng các nhà tư tưởng gia vai vóc; ông luôn nhắc nhở ta khi tìm nội dung của một truyền thông, của một cuộc đối thoại thì phải đi tìm ba nội dung sau đây để hiệu quả hoá niềm tin của ta trước các quan hệ giữa người và người: Tiềm năng tri thức trong truyền thông và đối thoại qua kiến thức làm nền cho lý luận và ý thức; tiềm năng truyền đạt qua tính thuyết phục của ngôn ngữ dựa trên quyết đoán của nhân tính; tiềm năng luận thuyết qua cách tận dụng niềm tin đưa trình độ tin tức của người nghe hoặc người đối thoại lên mức độ cao rộng của đạo lý. Ba tiềm năng này quyết định tính chính xác và sáng suốt của lời nói, của cách sử dụng các phương tiện truyền thông. Ý kiến của Becker về cách xử lý các kinh nghiệm của truyền thông và đối thoại củng cố lý luận này, và ông đề nghị hẳn một mô thức truyền đạt tính hữu dụng (modèle de l’utilité espérée, the utility maximizing approach) dựa trên các kinh nghiệm không phải chỉ là những dữ kiện bình thường, mà là một mô hình có chỗ dựa của các lý luận nội chất của niềm tin, chỉ đạo các hành động duy lý, làm nhân sinh quan cho mọi quyết định, một loại nhân sinh quan mà ai cũng có thể hiểu được, mà không cần phải kêu gọi các cách giải thích khác ngoài niềm tin này. Như vậy, nội chất tri thức của lý lẽ giúp ta hiểu được quá trình hình thành một quan điểm trong cuộc sống, nơi có nhiều cá nhân với các quan điểm vô thưởng, vô phạt; mà cũng là nơi có nhiều chủ thể có trách nhiệm từ lời nói tới lý luận, có bổn phận từ tri thức tới phương pháp truyền đạt, có ý thức từ đạo lý tới quyết định. Tức là có niềm tin, có nhân tâm. Các tác giả hiện đại của chủ thuyết duy lý, từ cách xây dựng quan điểm tới cách xây dựng niềm tin, đều đồng ý với nhau là có nhiều khác biệt giữa thứ tự của giá trị và thứ tự của sự thật, nhưng cả hai đều được xây dựng bằng một hệ thống duy lý được lý luận, lập luận, chứng minh, tổng kết qua đó các phán đoán về giá trị là các phán đoán về các sinh hoạt của con người, tuỳ thuộc vừa vào hoàn cảnh của thực tế, vừa vào mức độ và trình độ của mỗi cá nhân. Cho nên, tất cả các sinh hoạt thất bại của con người tới từ sự sai lạc về niềm tin, ngay trong cách xây dựng cái lý làm lõi cho niềm tin; vì vậy trong thực tế: tình thương yêu đã thành chiến tranh, lý tưởng đã thành ích kỷ, cách mạng đã thành tham nhũng. Hãy suy diễn sâu hơn: nếu cứu cánh biện minh được cho phương tiện, thì phải chứng minh toàn bộ cứu cánh đó qua toàn diện của sự thật; vì vậy tất cả phương tiện đều đáng ngờ vực, đều đáng nghi ngại, khi nó không được chứng minh toàn hảo bởi cứu cánh của nó trong thực tế; xảo thuật chính trị không phải là giá trị phổ biến của nhân sinh. Mọi hành động phải có ba chỗ dựa sau đây: giá trị của niềm tin, tri thức về xã hội, hiểu biết về thực tế; nếu một hành động mất ba chỗ dựa này thì sẽ trở thành một loại hành động khó giải thích, khó thuyết phục, khó thông cảm được. Cái lý phải đi với cái nhân, bản thân cái nhân không phải chỉ đi với cái hay, đẹp, tốt lành, mà còn phải nhập nội với cái thật, thực, đúng, trúng trong nhân sinh.
Việt tộc có một người thầy thật đáng quý trọng, hiền tài tin yêu của Hải Dương, chủ thể tinh hoa của Hải Phòng, giải toả cái mù mờ, cái mất phương hướng, cái mất niềm tin của Nguyễn Hoàng, nhà tiên tri thông suốt mọi thăng trầm của thời Trịnh Nguyễn phân tranh: Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nếu đánh giá cụ Bạch Vân chỉ qua tài năng tiên đoán của cụ, cũng còn bất công với cụ, phải thấy rõ cụ hơn qua câu chuyện nhân tâm của cụ trong chuyện giữ niềm tin. Vì chuyện nhân đức trong nhân tính của Việt tộc được cụ viết rất rõ qua giáo dục, giáo khoa, giáo án, giáo trình của cụ dành cho nhân dân sống quanh bên cụ. Qua đó, cụ báo động cho nhân dân biết là bọn quan lại trong triều Lê, xung quanh chúa Trịnh là bọn chỉ thấy tư lợi, mà không đau đớn với số phận của đất nước đang lâm nguy tới tận gốc rễ. Nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm và Mạnh Tử gặp được nhau, họ sẽ rất tâm đắc, vì họ đặt nhân dân họ trên vua, trên vương, trên triều của họ. Niềm tin phải dựa trên chân trời của đạo lý, chính đạo lý tạo ý nghĩa cho niềm tin, cái hay muốn được lâu dài, nó phải được công nhận là tốt trong quan hệ xã hội, cái đúng trong pháp luật, rồi phải thành cái trúng, cái chính xác trong pháp hành. Luật pháp phải có định nghĩa rõ ràng về cái đức của nó, một cái đức có ba rễ: trách nhiệm, bổn phận, quyền lợi. Sự ân cần, chỗ dựa của tương trợ, luôn cần trách nhiệm, bổn phận để xây dựng công bằng của pháp lý, nó vượt qua quan hệ giữa hai cá nhân, vì nó tới từ nhân lý theo nghĩa bao trùm nhất, nó là cội của quan hệ xã hội, nó là gốc của định chế, nó là rễ của dự phóng tương lai để đưa cuộc sống về hướng thiện. Hoàn cảnh, lời hứa, niềm tin khi kết tụ thành nội kết bền vững với thời gian, sẽ làm xuất hiện ra cái ai? Chứ không phải cái gì?; vì cái ai? Thuộc về cái nhân; còn cái gì? Thuộc về vật chất. Giữ lời hứa như giữ niềm tin là giữ bền bỉ cái nhân qua không gian, qua thời gian, qua biến thiên của kiếp làm người, nó khác xa cái hằng số trong vật chất, của cái gì? Chỉ dựa trên cái tính toán lâu dài của tư lợi. Ngược lại, cái ai? Của cái nhân là cái “đá mòn nhưng dạ chẳng mòn”.
Nhân Tâm-Niềm Tin (P8)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).