Niềm tin, nhân trí
Thanh Tâm Tuyền, ngọn núi xa tắp của thơ tự do, dòng thác thâm lực của văn xuôi cận đại, cũng là thi sĩ của sự mất niềm tin sâu thẳm, luôn vấn nạn giống nòi bị dẫn dắt bởi những ý thức hệ bạo ngược, đã có một định nghĩa thật đẹp về niềm tin: “… Giật mìn ngay những vùng trời riêng rẽ… ta chui xuống hố cá nhân, ôm ngày mai vào lồng ngực, tình yêu làm giáp sắt, ta rút về chiến khu, pháo đài dựng lên tua tủa niềm tin, nguyện chiếm lại đại lộ bờ cây tâm sự… ”. Trong niềm tin có hai chuyện cốt lõi: ngày mai và tình yêu, tình yêu đây vừa là tình yêu đôi lứa, vừa là tình yêu đồng loại, nếu cần chúng ta sẽ có hố cá nhân, có chiến khu, có pháo đài dựng lên tua tủa, để bảo vệ cho bằng được niềm tin, nếu không bọn thâm, hiểm, độc, ác sẽ tính chuyện giật mìn ngay những vùng trời riêng rẽ của chúng ta. Nguồn cội của niềm tin vẫn là lý trí của con người trước những thử thách của vũ trụ, của thiên nhiên, của xã hội, của chuyện sống còn trong nhân sinh; nếu chúng ta muốn nhân tính bám trụ sâu trong nhân tâm, thì chúng ta phải dựa trên ba cái gốc: kinh nghiệm được chuyển hoá thành kiến thức; kiến thức được xét nghiệm bởi đạo lý; đạo lý được kết tinh bởi ý thức, mà ý thức này giờ đây đã trở thành hải đăng cho niềm tin. Trong triết học phân tích, khi Hume xây dựng lý thuyết của kiến thức, đã nhận định rằng có lẽ lý trí của con người được thể hiện qua cuộc sống cũng để phục vụ những hoài bão của nhân tính, cho nên mỗi cá nhân trong chúng ta khi hành động, đều có cái lý về hành động của mình, cái lý có thể tới từ động cơ tình cảm, con người không bao giờ duy lý một cách máy móc tuyệt đối. Sau một thế kỷ, lý thuyết duy lý đã trở thành chủ thuyết duy lý hiện đại, tìm cách giải thích các hành động, qua lăng kính của cái lý; các công trình gần đây của Coleman đã lập được nhịp cầu cho chủ nghĩa duy lý cá nhân đến gần với quyền lợi của tập thể, khi tác giả này nhận ra mọi hành động duy lý đều có cách giải thích riêng cho nó, rồi tự nó thuyết phục nó, và nó có sức thuyết phục với tất cả người xung quanh, vì nó biết mang tư lợi lên cân, đo, đong, đếm với các hậu quả tốt và xấu trước khi hành động, mà không cần kêu cứu các chủ thuyết khác về văn hoá, tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh… giải thích hộ nó. Hành động duy lý tự mình lý giải được những việc mình làm, chủ thuyết duy lý này cho rằng các cách giải thích dùng thượng đế, siêu hình, dị đoan… đều mơ hồ, đều không có chỗ đứng để tạo được một niềm tin đứng đắn, chỉ làm tối đen thêm nhân cách. Tổng kết hơn một thế kỷ học thuật, chủ thuyết duy lý đã tìm đủ mọi lý lẽ để đánh đổ những niềm tin mù quáng, cuồng tín, huyền hoặc; gần đây lại được sự hỗ trợ của tri thức luận, được củng cố mạnh mẽ bởi thần kinh học mà trong giới học thuật hiện nay đã đặt hẳn cho nó một cái tên gọn hơn: khoa học bộ óc. Dứt khoát giải thích là mọi chuyện giữa người với người đều là chuyện giữa những bộ óc; thượng đế, thần linh, mê tín… bị đẩy lùi như những giả thuyết, có cũng được, mà không có cũng được. Nhưng các tác giả của chủ thuyết duy lý này dường như chưa đào sâu hai loại duy lý trong nhân sinh: duy lý dựa trên trật tự của luân lý và duy lý dựa trên thông minh cá nhân, vì có những tình huống, có những thế thái nhân tình mà hai loại duy lý này xung đột, đối chọi, khử trừ nhau. Việt Nam nằm trong cái nôi chung, cạnh Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, trong khu vực tam giáo đồng nguyên (Khổng, Lão, Phật), có đạo thờ ông bà, nhưng vắng mặt Ấn Độ giáo, và trong giáo thoại của đạo này có truyền thuyết Gaita, xử lý rồi lý giải sự xung đột, đối chọi, khử trừ nhau giữa duy lý dựa trên trật tự luân lý và duy lý dựa trên thông minh cá nhân. Gaita là một bài học mà người thầy Krisna giảng cho môn sinh mình là Azura, chuyện lạ là bài học này không diễn ra trong một lớp học, mà xảy ra trên một chiến trường, và như mọi chiến trường, luôn có hai bên: địch và ta, với chiến tuyến phân định rõ rệt. Bên ta có thầy Krisna điều binh khiển tướng, với sự trợ lý của của môn sinh Azura, vừa quan sát, vừa học binh lược của thầy mình. Bài học đầu tiên thật dễ hiểu: ta phải diệt địch, nếu không địch sẽ diệt ta. Nhưng các bài học tiếp theo thật khủng khiếp: khi binh lính của địch tới gần, qua trực quan mình Azura nhận ra có người mình quen biết, đây là hàng xóm, kia là bạn bè; kinh hãi hơn là tướng tá của địch quân lại là bà con quyến thuộc của mình, rồi từ kinh hãi qua thất kinh, khi môn sinh Azura khám phá ra vị chỉ huy tối cao của địch quân, đứng trong hậu đài giật dây cả một chiến trường không ai khác hơn là người thầy kính yêu của mình: Krisna. Người thầy tuyệt vời không ai khác hơn là tên phản bội vô cùng thâm độc. Các bạn trẻ của Việt tộc, ta rút ra được gì trong bài học này? Một bài học vô cùng quý báu, qua phương pháp luận đột biến thay ngôi, đổi vị của Krisna, người thầy này dặn mọi môn sinh phải luôn luôn tỉnh táo để luôn luôn cảnh giác, nhất quyết không rơi vào chuyện đặt niềm tin một cách vô điều kiện với bất cứ ai, với bất cứ ý thức hệ nào, với bất cứ đảng phái nào, với bất cứ lãnh tụ nào. Kết thúc bài học này là lời tâm sự của người thầy Krisna với môn sinh Azura: “Tại sao con tin thầy một cách mù quáng vậy? Tại sao con không để lý trí thông minh cá nhân của con tự đặt một giả thuyết là thầy cũng có thể là tên phản trắc vô luân!”. Các bạn ơi, đừng để bất cứ một niềm tin vô điều kiện nào làm cho lý trí sáng suốt cá nhân của ta bị thui chột; đừng để sự thông minh của mình bị bóp chết từ trong trứng nước bởi một niềm tin mù quáng về ngôi thứ, về vị thế của kẻ lãnh đạo mình. Nếu các bạn muốn bảo vệ sự thông minh của mình, thì trước hết phải có tự do cá nhân của riêng mình, tự do trong tư duy sinh ra độc lập trong hành vi, tạo ra tự chủ trong hành động. Có một bài học khác trong Phật giáo, xa cái bạo động của chiến trường, vắng cái hung tàn của chiến cuộc, nhưng dạy ta thật nhiều chỉ số và chỉ báo trong việc giữ niềm tin một cách sáng suốt, đó là phạm trù giáo khoa trong bài học trước khi Phật qua đời: Hải Đảo Tự Thân. Khi biết Phật sắp qua đời, nhiều môn sinh đã khóc, vì họ bi quan, khi thầy mình qua đời, thì mình sẽ bị mất từ tuệ giác tới tâm linh, từ kiến thức tới kinh nghiệm, từ lý luận tới phương hướng; nhân sinh quan, thế giới quan, vũ trụ quan của tăng đoàn sẽ ra sao? Sẽ đi về đâu? Và Phật đã giảng bài Hải Đảo Tự Thân, trong đó lời khuyên chính là mỗi cá nhân phải độc lập trong tư duy để tu thân; phải tự chủ trong hành động để phòng thân; phải chủ động trong nhân cách để lập thân, theo Phật luận vững chắc của từ, bi, hỷ, xả. Một bài học duy lý, xa màu sắc tôn giáo, đem lập luận nhân lý gần hơn nữa với lý luận của lý trí khoa học, một bài học đầy nhân trí, xa thần linh, tránh thượng đế, nơi mà mỗi thân là một đảo, bị bao vây bởi đại dương, nhưng vẫn biết đứng vững vàng trước mọi giông tố. Bài học Hải Đảo Tự Thân, Nguyễn Trãi đã làm được theo phong cách của riêng mình, từ chính trị tới binh lược, từ lý luận tới luân lý, từ chuyện chờ thời trong những năm ròng tại Đông Quan, tới chuyện án binh cũng trong nhiều năm dài trên núi Chí Linh. Chuyện chờ đợi thời cơ, không phải là chuyện khoanh tay, ngồi yên, thụ động, mà nó dựa trên cái sáng suốt của lý, cái tỉnh táo của trí, chờ đợi trong chủ động, có cân nhắc, có tính toán, chuyện này rất rõ trong lập luận của cụ Ức Trai “Đố trời mà biết thời, lại có chí để thành công, đợi thời chờ dịp, giấu sắc giấu tài, ăn thường nếm mật, ngủ thường nằm gai”. Bọn quân Minh ngoại xâm dù mạnh, dù nhiều tới đâu, ta sẽ thắng chúng bằng kiên trì trong chiến đấu, bằng bền gan trong thử thách, bằng vững tâm trong trầm luân. Các bạn à, Nguyễn Trãi đã để lại một dấu ấn sâu đậm trong nhân cách giáo lý Việt tộc qua chữ nhẫn.
Nhân Tâm-Niềm Tin (P7)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).