Nhân Tâm-Niềm Tin (P5)

Niềm tin, đồng thuận
Thi sĩ Hoàng Cầm, của thi ca biết biến niềm tin thành đam mê, đứa con tin yêu của Kinh Bắc, ngọn gió Bấc đầy năng lực đánh thức được bao ước vọng tự do, phải thẳng lưng khi bị vây hãm bởi bạo lực, luôn cảnh tỉnh chúng ta hãy thận trọng với các loại nhà tù vô hình: “Ta con phù du ao trời chật chội/ Đứng cánh bèo đo gió lặng tìm sao”. Ao trời không phải là bầu trời, ao trời là nhà tù vô hình, bầu trời có sao, có gió mới thật là tự do. Hiện nay, trong xã hội học vi mô của Mỹ, có sự xuất hiện thật thông minh các công trình của Goffman về quan hệ giữa niềm tin, truyền thông và tin tức, sự tác động qua lại của chúng trong quá trình nhận thức thể hiện các giá trị đạo lý của cuộc sống, trong đó sự sai lầm của nhận thức về tin tức luôn dẫn đến cái thất bại của niềm tin, nếu ta để niềm tin bị đóng khung bằng chủ quan vô tri trước tin tức, trước truyền thông, nếu ta không đủ tri giác để phân tích tin tức, không động lòng thương đồng loại khi trong truyền thông có nội chất của khổ đau. Trong cuộc sống hàng ngày, từ tin tức tới hình ảnh, từ vô tri tới vô tâm, ta sống trong một cái khung chủ quan, thì cái khung chủ quan cá nhân này tạo cho ta một thói quen, rất tiện lợi trong cách xử lý truyền thông và giao tế, nhưng chính cái khung chủ quan này sẽ trở thành một nhà tù, mà mỗi cá nhân sống như một con ngựa khi đã bị bịt mắt, thì chỉ biết đi về một hướng, hướng của người nài ngựa, ra lệnh cho nó. Đây là vấn đề của đất nước ta hiện nay, của loại tin tức một chiều, tạo ra các con người nhìn mà không thấy, vì muốn thấy thì phải có các chất liệu của kiến thức, của nhận thức, của ý thức, cả ba cũng là chất liệu của niềm tin. Có những kẻ giàu có, khi ra đường thấy đồng bào mình nghèo đói mà không thấy thương tâm, lại còn tỏ vẻ khinh miệt. Nhìn mà không thấy, không thấy thì không hiểu, không hiểu được thì làm sao thương được? Tình thương luôn là cơn mưa, xuất hiện để tưới mát niềm tin, làm cho những hạt giống tốt đẹp của niềm tin có thể nảy lộc, đâm chồi ngay trên những mảnh đất khô cằn vì khổ đau.
Trong những năm qua, triết học luân lý đã mở đường cho xã hội học đạo lý trong điều tra, nghiên cứu, điền dã và diễn luận về các hành động trong xã hội dựa trên các tình cảm luân lý, được củng cố bởi những lý luận luân lý, mà khi có được các lý luận này thì con người đã nắm trong tay ba nguyên tắc cốt lõi: nguyên tắc thể hiện luân lý trong cách hành xử hàng ngày; nguyên tắc phán đoán bằng luân lý các chuyện đang xảy ra trong xã hội; nguyên tắc sử dụng luân lý một cách cụ thể vào cuộc sống. Đây là một sự đồng thuận có sức nội kết vững, sức kết lý cao, để xây dựng và bảo vệ niềm tin. Cả ba nguyên tắc này được hỗ trợ bởi một sự đồng thuận khác: đạo lý (éthique, nguyên ngữ là ethos từ tiếng Hy Lạp), và luân lý (morale, nguyên ngữ là more từ tiếng La tinh), đạo lý dẫn ta về hướng hay, đẹp, tốt, lành; luân lý dắt tay ta trên con đường nhận ra bổn phận và trách nhiệm đối với gia đình, cộng đồng, xã hội, và quốc gia. Có vài tác giả phương Tây cho rằng đạo lý trú trong phạm trù cá nhân, luân lý ẩn trong phạm trù tập thể, khi một đạo lý cá nhân được đám đông công nhận thì nó trở thành luân lý. Câu chuyện chính của chúng ta trong bài này là niềm tin, và niềm tin vừa là đạo lý, vừa là luân lý ngay trong thuở sơ sinh của nó. Bền hơn nữa, niềm tin là cầu nối huyền diệu giữa hai loại đạo lý: đạo lý khuôn phép (éthique normative) nói lên những gì ta phải làm trong cuộc sống, và đạo lý mô tả (éthique descriptive), hướng dẫn ta thấy các đặc thù, đặc điểm, đặc sắc của mỗi phán đoán về đạo lý. Vì phán đoán đạo lý về giáo dục không phải là phán đoán đạo lý về văn hoá, vì phán đoán đạo lý về tôn giáo không phải là phán đoán đạo lý về chính trị; như vậy ta tránh được các hiểu lầm “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, “ông nói gà, bà nói vịt”, “râu ông, cắm cằm bà”. Vững hơn nữa, đạo lý và niềm tin luôn đồng thuận trong phạm trù của giá trị, giá trị đòi hỏi con người tin vì lý, dùng lý để luận, rồi dùng luận để củng cố cái tin, nhưng phải nói rõ là giá trị đạo lý của niềm tin hoàn toàn khác với các giá trị của khoa học thực nghiệm, vì giá trị đạo lý của niềm tin không mang ra thí nghiệm được. Chuyện lạ là dù không thí nghiệm được nhưng nó có mặt trong xã hội, trong cộng đồng, trong nhân sinh như một hằng số, vừa phổ biến trong quan hệ giữa người và người, vừa cụ thể trong ước nguyện, hoài bão, lý tưởng của mỗi cá nhân. Trong những công trình nghiên cứu gần đây của tâm lý học xã hội và xã hội học hành động, ta thấy rõ có hai hệ vấn đề khác nhau trong nhận định về giá trị. Các trường phái của Mỹ thì lập ra chủ thuyết core value, dựa trên self-reliance (ta chỉ tuỳ thuộc vào ta), khi nhận diện, đánh giá, phán đoán về các hành động của mình. Khác hẳn với Âu Châu, nghiên cứu giá trị theo ba hướng được sắp xếp vào một cấu trúc luận với ba định đề: có một quan hệ hàng dọc giữa những giá trị khác nhau, tức là có những giá trị này quan trọng hơn những giá trị kia; mỗi giá trị có định hướng riêng của mình tức là có cách hành động riêng; mỗi giá trị lại được tổ chức theo hệ thống riêng, nếu muốn thực hiện được giá trị này thì phải nắm được ba yếu tố chính là: con người, thời gian và hành động. Một người có thể giải thích chớp nhoáng niềm tin của mình, nhưng cần thời gian và hành động hiệu quả để biến niềm tin của mình thành thực tế. Các kinh nghiệm diễn luận này yêu cầu chúng ta phải công nhận là có nhiều giá trị khác nhau, có nhiều niềm tin khác nhau, đạo lý của cá nhân có khi không phải là luân lý của tập thể, như vậy có niềm tin, vẫn chưa đủ, muốn niềm tin này sống còn thì phải phân biệt hai loại phán đoán khác nhau: phán đoán để đánh giá đạo lý của mỗi giá trị và phán đoán để đánh giá mỗi thực tế của cuộc sống. Tổ tiên ta rất rõ về hai cách phán đoán này, và để lại những dấu ấn xuất sắc trong phong cách đạo lý giữ nước của Việt tộc. Trong đời Lý, dân tộc ta có một kiện tướng: Lý Thường Kiệt. Khi phán đoán để đánh giá xong ý đồ thâm, độc, ác, hiểm của nhà Tống là xâm lăng nước ta, thì phán đoán đã biến thành quyết đoán trong thực tế: đánh địch trước khi địch đánh ta, ngăn chặn ý đồ chiến tranh của địch ngay trên đất địch. Ngay trên thượng nguồn, ta đã không cho phép địch biến quê hương đất nước ta thành bãi chiến trường. Về chiến thuật quân sự cũng như về cách vận hành địa lý, đánh trước để tạo bất ngờ, để tạo yếu tố quyết định chắc thắng trên chiến trường; về bản lĩnh quân sự cũng như về chiến tranh tâm lý, Lý tướng quân nói cho quân và dân ta biết là ta không hề sợ Hán tặc, vì chúng ta “đi guốc trong bụng” của chúng nó.
Nhân Tâm-Niềm Tin (P6)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).

Bình luận về bài viết này