Niềm tin, niềm vui
Thi sĩ Tô Thuỳ Yên, dòng nước ngầm nghẹn ngào với bao biến nạn của Việt tộc, mưa nguồn của bao nỗi khổ đau chiến loạn của thế kỷ hai mươi, sau những năm dài trong ngục tù cải tạo, ngày được trở về lại Sài Gòn, sắp thấy lại gia đình, ngôi nhà, bạn bè… đã tự dựng cho mình một niềm tin mới, nó bắt đầu là niềm vui của tự do rất mới, tự do kích thích mỗi cá nhân phải xây dựng lại nhân sinh quan, thế giới quan, vũ trụ quan của mình, trong bài Ta về: “Ta về một bóng trên đường lớn… Ta về khai phá bùa thiên yểm, thức dậy đi nào gỗ đá ơi… Ta về qua những truông cùng phá… Thế giới vui từ mỗi lẻ loi…”. Vui từ mỗi lẻ loi, đã thành chất keo kết niềm tin với niềm vui, khi kết lại rồi thì khó tách được niềm vui ra khỏi niềm tin. Không oán thù, không cừu hận ai, vui trong lẻ loi, cô đơn, cô độc; vui luôn trong thanh bạch, thanh đạm, thanh bần; vui luôn trong thử thách, cam go, trầm luân. Khổng Tử thấy được chuyện này: “người ta không sợ nghèo túng, chỉ sợ bất công”. Bất công tới từ bất bình đẳng, bất công và bất bình thiêu huỷ niềm tin, giết chồi lộc của niềm vui. Các vị lãnh đạo đang bòn rút tài nguyên đất nước, chấm mút của cải xã hội, làm suy kiệt sinh lực đồng bào, hãy suy nghĩ về thái độ của mình, vì Việt tộc vừa mất niềm tin nơi lãnh đạo, vừa mất niềm vui trong cuộc sống, thì nguy hiểm không lường được! Trong đám người lãnh đạo xấu, ta đừng quên là họ khi lọt vào guồng máy lãnh đạo thì củng cố bộ máy tuyên truyền qua xảo thuật ngu dân hoá, tự xem mình khôn hơn dân tộc mình, thái độ xem dân chúng là “ngu muội, dễ lừa”; loại người này, họ bị ung thư tư duy mà họ không biết. Trong những ngày tháng điên đảo của cách mạng Pháp, Hugo đã chỉ thẳng vào mặt bọn con buôn chính trị này đang khai thác con bài ngu dân để tha hoá tri thức dân tộc họ: “C’est insensé de croire que je ne suis pas toi!”, thật bất thường khi anh tưởng tôi không phải là anh. Tôi cũng là anh, vì tôi cũng có tri giác, nhận thức, thông minh như anh; chỉ có anh là vô tri, vô minh, vô giác, mới không thấy kẻ xung quanh anh, thiên hạ rất sáng suốt, tỉnh táo. Câu này khác với câu suy bụng ta ra bụng người, vì câu của Hugo đặc biệt dành cho những kẻ chuyên giật dây trong chuyện buôn bán chính trị, biến chính trường thành thương trường. Giữa thế kỷ vừa qua, tại Hoa Kỳ cũng có một trường phái xã hội học xuất sắc của Garfulkel, với tên gọi ethnométhodologie (dân tộc phương pháp học), cũng luôn nhắc nhở các chuyên gia, các trí thức, các học giả đừng tự đặt mình cao hơn người thường dân, đừng tự coi mình giỏi hơn người đời, nếu đặt mọi người vào cùng một thế cuộc, vào cùng một tình huống, mà tác giả này gọi là ở đây (ici) và bây giờ (maintenant), thì chưa chắc ai sẽ khôn hơn ai! Trong suốt cuộc sống làm người, mỗi lần chúng ta gặp loại người “dạy đời” ta, không phải bằng cái khôn ngoan của nhân loại mà chỉ bằng cái lươn lẹo trong tư lợi của họ, lúc đó niềm tin của chúng ta bị xúc phạm. Xin kể câu chuyện về lịch sử của trí thức Việt kiều của thế kỷ hai mươi vừa qua tại Pháp: thế hệ đầu tiên giữa hai thế chiến với các nhân vật có niềm tin: Trần Đức Thảo, Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Khắc Viện… xuất sắc trong học thuật, tinh chuyên trong nghề nghiệp, chấp nhận về nước sau 1945 với ý nguyện chống thực dân để giành lại độc lập dân tộc, sau đó mỗi người một bi kịch, nhưng họ không để mất nhân cách của họ trước bạo hành của chuyên chế, trước bạo lực của độc tài. Thế hệ tiếp theo thì sao? Cũng có những người xuất sắc trong học thuật, tinh chuyên trong nghề nghiệp, chấp nhận về nước sau 1975 với ý nguyện xây dựng lại đất nước sau những năm dài chiến tranh, nhưng tiếc thay trong số người này lại có hai nhân vật, hai anh em, về nước để nhận bổng lộc của chế độ, qua cơ chế của Ban Việt Kiều Trung Ương, với tư cách thấp hèn của loại người nịnh hót, tâng bốc quyền lực, làm đồng bào “xem rẻ” Việt kiều, làm cho Việt kiều “thấy nhục” khi đồng bào mình nhắc tới họ. Muốn đồng bào quê nhà viết sử của đất nước tới nơi tới chốn, thì Việt kiều cũng phải viết sử của “xa đất, xa nước” tới nơi tới chốn, từ đó tự xét mình thật cặn kẽ, như cụ Tiên Điền đã căn dặn: “Phải dò cho tới tận nguồn lạch sông”. Đừng cào cào, xới xới, hãy đào sâu, đào rộng để thấy một chuyện lạ khác về lòng tin trong sinh hoạt trí thức Việt kiều trước và sau 1975, khi thế hệ chúng tôi còn là sinh viên, phải “thưa, bẩm, dạ, vâng” với một loại đàn anh mang tiếng là trí thức, là tiến bộ, là theo cách mạng, là biết dấn thân…. Chuyện lạ là mỗi lần chúng tôi lấy sáng kiến về dân chủ, về công bằng, về pháp chế thì họ luôn lấy cái hèn nhát của họ trước ĐCSVN, để dập tắt sự can đảm cần thiết trong chuyện giữ vững niềm tin của thế hệ chúng tôi. Thật tức cười khi họ giải thích cái hèn nhát của họ bằng cái mà họ gọi là khôn khéo của minh triết, kín đáo của hiền triết. Ngữ văn và ngữ pháp của Việt ngữ rất minh bạch: minh triết, hiền triết dựa trên sáng suốt và tỉnh táo, khi thấy đúng thì làm, không lùi trước cái xấu, tồi, độc, ác, nếu cần quyết định thì dùng can đảm mà quyết đoán. Ngược lại, cái hèn nhát diệt sáng suốt, huỷ tỉnh táo, triệt can đảm, vùi quyết đoán. Lạ hơn nữa là mỗi lần họ nghe kể về các thành quả, các thành công của thế hệ đàn em, thì họ lại dùng kinh nghiệm thất bại của họ trong nghề nghiệp, trong tri thức, trong xã hội, nhất là trong chính trị… để vừa giả đò phân tích, vừa cố tình hạ giá các thành quả, các thành công của thế hệ đàn em. May mà, các thành quả, các thành công của thế hệ đàn em đã trở thành niềm vui để đàn em giữ được niềm tin trước các thử thách của cuộc đời, của đất nước. Có lần, tôi lấy câu chuyện này ra tâm sự với điêu khắc gia Điềm Phùng Thị, người mẹ tinh thần của tôi trong cuộc sống vong thân nơi xứ người, thì bà lý giải rằng: “lấy thất bại cũ để phán đoán thành công mới, thì có thể đây là chuyện vô thức hoặc tiềm thức của một loại người trong dân tộc ta, đã bị đô hộ, bị nô lệ lâu quá chăng?”. Các thế hệ trẻ của Việt tộc, các bạn nghĩ thế nào về các câu chuyện Việt kiều này? Có hai tác giả lớn trong văn học pháp là Flaubert và Maupassant, hai đỉnh núi ngang trời của tiểu thuyết luận, hai ngọn thuỷ triều trải rộng của văn chương, rất tâm giao, đắc khí khi cả hai đều định nghĩa niềm tin là: “Việc trao truyền sự nhạy cảm của nhau qua các thế hệ, nhạy về cái hay trong tư duy để sau đó đưa nó vào đời sống xã hội, mà xã hội là nơi tác chế ra kiến thức của nhân loại, được lấy từ niềm tin tới từ tư duy của mỗi người”. Niềm tin và niềm vui luôn có một chỗ đứng thân quen trong nhân cách giáo lý Việt tộc. Hãy nhớ lại câu chuyện của nguyên phi Ỷ Lan, nội công của minh mẫu, bản lĩnh của hiền mẫu, đã can đảm đứng ra cáng đáng việc nước, khi vua Lý phải đi bình Chiêm, nhận đầy đủ trách nhiệm “trong ấm, ngoài êm” của một người phụ nữ, luôn lạc quan, yêu đời, sống với niềm vui, lại trao truyền được niềm tin của mình tới quần thần xung quanh. Ở đây, không phải là “trong ấm, ngoài êm” chỉ của một gia đình mà của cả một dân tộc. Với một niềm vui trong sáng và thành thật, nam giới chúng ta hãy cầu mong có thật nhiều phụ nữ sẽ vào thật nhiều các chức năng lãnh đạo sắp tới trong giai đoạn mới, với phong cách giáo lý Việt tộc của hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ỷ Lan, Huyền Trân…. Vì một thể chế có liêm sỉ là thể chế đó luật pháp hoá được chuyện bình-đẳng-để-bình-quyền, bình-quyền-để-chia-quyền, bình-đẳng-trong-quyền-lực-và quyền-lợi, thật sự bình đẳng giữa nam và nữ trong tam quyền phân lập, mà nhiều quốc gia văn minh phương Tây đã làm và đang làm mạnh mẽ trong định chế và cơ chế của họ, bất cứ người đàn ông Việt Nam nào chống lại chuyện này đều là bất chính.
Nhân Tâm-Niềm Tin (P5)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).