Nhân Tâm-Niềm Tin (P3)

Niềm tin, tin yêu
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn khi còn trẻ thì: “Tôi yêu mọi người, cỏ cây, nhân loại… ”, cuối đời thì: “Tôi là ai mà yêu quá đời này”, đây không còn là tình yêu nhỏ hẹp của hai người, mà là tình thương phủ trùm lên cuộc sống, chan hoà với muôn loài, mà Phật học sẵn sàng gọi là vô lượng tâm, tâm chứa bao nhiêu lượng cũng được, tình yêu và tình thương như vậy có một chỗ dựa là tin yêu, tin đời và tin người, cái hèn mọn của ích kỷ sẽ không có chỗ để dung thân. Chính trị học giáo dục và xã hội học đạo lý, cùng nhau nhận diện niềm tin vừa là tâm nguyện, vừa là hoài bão, nó xuất hiện với danh chính ngôn thuận giữa cuộc sống để chống lại hai loại ích kỷ, hàng ngày nhan nhản giữa chợ đời: ích kỷ tương đối (l’égoïsme relatif), sống chỉ để bảo vệ tư lợi của mình, và ích kỷ tuyệt đối (l’égoïsme absolu) không những sống chỉ để bảo vệ tư lợi của mình, mà còn loại ra khỏi môi trường của mình những ai có ý phản kháng, luôn cả những ai có ý định tranh cãi với mình, đây là nội chất của ĐCSVN từ hơn nửa thế kỷ nay, độc đảng nên độc quyền, độc tôn nên độc tài. Sự thật mất lòng, và nói lên sự thật có thể bị hãm hại, nhưng sự thật là sự thật, nền của chân lý, gốc của lẽ phải. Chuyện gì đang xảy ra trong xã hội Việt Nam hiện nay: làm lãnh đạo đảng thì cần vơ vét, nhưng không cần niềm tin; trong gia đình thì cha mẹ, anh, em triệt hại nhau chỉ vì một mảnh đất, một cái nhà, một gia tài, cần tiền chớ không cần tình, tình đây là tình nghĩa, tình người chỗ dựa của niềm tin. Bề trên ăn ở sỗ sàng, bầy dưới ê chề tha hồ bạo ngược; chữ tin, dẫn đường cho chữ tín, cả hai chữ vắng tiếng, vắng mặt, vắng bóng một cách lạ kỳ trong quan hệ hàng ngày hiện nay giữa đồng bào mình! Nhân cách Việt tộc rồi sẽ đi về đâu? Dưới đời Trần có nhiều chuyện thật hay, thật đẹp, ngoài những minh vương, ngoài những chiến công làm nên vai vóc của Việt tộc, ba lần dẹp Mông, giữ cho đất nước vừa bình, vừa an; các điều tra sử học cho thấy đây là thời mà Việt tộc có đời sống tâm linh rất cao: nhiều đồng bào tập thiền, luyện thiền, tu thiền, dưỡng thiền, cả nước thiền với đời sống tâm linh sạch đẹp, có chiều cao đạo lý, tất cả dựa vào niềm tin cộng đồng thật trong sáng. Cái ích kỷ, cái tham lam, cái vơ vét, xa lạ trong không khí thiền này; thiền cho sáng suốt, thiền cho tỉnh táo, thiền để nắm chắc: niệm, định, tuệ. Huyền Trân công chúa nhận trách nhiệm giữ hoà bình cho hai nước Đại Việt và Chiêm Thành, chấp nhận cuộc hôn nhân với Chế Mân, với niềm tin thái hoà cho hai dân tộc; khi về lại quê cha đất tổ, cũng đi tu, nhập thiền, mà còn biết lo rất đầy đủ cho dân địa phương xung quanh mái chùa mà vị minh mẫu này chủ trì. Nhân cách giáo lý Việt tộc này đẹp như vậy, tại sao chế độ hiện nay không mang ra hiển vinh nó trong học đường, trong xã hội, trong giáo khoa, trong định chế? Chúng ta đang bàn về nội công của các minh vương, bản lĩnh của các minh mẫu, chúng ta “thỉnh nguyện” các vị muốn lãnh đạo đất nước trong những tháng năm tới, không cần phải đi tu, mà chỉ cần sáng suốt bồi đắp lại niềm tin, tỉnh táo gầy dựng lại lòng tin; vì mất niềm tin, vì bỏ lòng tin là đã đặt bước-gửi thân mình vào chốn tà đạo rồi.
Trong tác phẩm Métaphysique de l’amour (Siêu hình học tình yêu), Schopenhauer phân tích cái tỉnh táo thấp hèn, cái sáng suốt tồi xấu của các kẻ ích kỷ: “loại người không bao giờ thấy mình sai lầm trước tư lợi”, kẻ này đếm từng đồng, tính từng cắc một, thì làm sao đếm sai, tính lầm được. Tính toán tủn mủn, bòn rút keo kiệt, luôn thấy mình khôn hơn những người chung quanh. Nhưng ông bà ta dạy: “khôn quá, hoá dại”, vì không có niềm tin được tưới tẩm bằng đạo lý, vì không có lòng tin được vun xới bởi tâm linh, nên hay rơi vào thảm hoạ “bỏ của, chạy lấy thân”, trước những biến động của nhân thế, sống kiếp “thạch sùng tiếc của”, khi họ kể về chuyện mất của, thì càng làm cho nhân cách họ thấp hèn hơn. Tôi sống tại Âu Châu cũng gần nửa thế kỷ, thường thấy cảnh “bi hài kịch” của các bạo chúa, vơ vét tiền của, vàng bạc, châu báu của dân tộc mình, rồi gửi vào các ngân hàng Âu Châu, khi tới ngày tàn của các bạo chúa này mà tiền của vẫn “kẹt” trong các ngân hàng này, không lấy ra được, vì pháp lý chưa điều tra xong, vì công pháp quốc tế chưa thẩm định xong. Gia đình các tên bạo chúa này sống vất va, vất vưởng như ”bụi đời”, còn các bạo chúa thì vật và vật vờ nửa “oan hồn”, nửa “âm binh”. Các kẻ đang vơ vét của cải của Việt tộc hiện nay nên “thiền” để có “niệm, định, tuệ” trong câu chuyện “bụi đời” – “oan hồn” – “âm binh” này. Người có niềm tin là người buông bỏ được phản xạ ích kỷ, can đảm tự giải phẫu các con tính tư lợi thấp hèn của mình để tìm chiều cao trong ý nghĩa làm người, lấy niềm tin hay, đẹp, tốt, lành để xây dựng nên nhân cách, lấy nhân cách làm tư cách, rồi biến tư cách thành phong cách, gạt hẳn bóng dáng “bụi đời” – “oan hồn”- “âm binh” ra khỏi môi trường nhân tâm của mình. Hãy tự nhận diện ra mình bằng chính niềm tin của mình, mà Celan đúc kết thành niềm tin đôi: “Je suis toi, quand je suis moi!”, tôi là bạn, khi tôi là tôi.
Nhân Tâm-Niềm Tin (P4)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).

Bình luận về bài viết này