Niềm tin, đức tin
Khi chuẩn bị biểu tình chống chiến tranh Mỹ tại Việt Nam ngay thủ đô Hoa Kỳ, mục sư L. King hỏi thiền sư Thích Nhất Hạnh: “Trên đoạn đường đi biểu tình thì dùng khẩu hiệu gì để nói lên tính hiếu hoà bất bạo động để chống lại cái bạo lực giết chóc của chiến tranh?”, thiền sư Thích Nhất Hạnh trả lời: “Hãy lấy lời của một bài hát của Phạm Duy: Tôi từ chối giết người, vì giết người rồi, tôi sống với ai?”. Từ chối giết người vừa là cái tin, cũng là cái đức, đức bảo vệ nhân sinh, đức bảo trì nhân phẩm, đức bảo quản nhân tính, đức bảo hộ nhân đạo, đức bảo trọng nhân tâm…. Tin chuyện chống giết người là đúng, vì cái đức này đường đường chính chính, đi trên vai, trên lưng các chiến tranh chết chóc bừa bãi. Niềm tin bảo vệ cho bằng được nhân sinh dựa trên đức tin để bảo trì nhân đức. Đức tin đây không phải là tin một đấng quyền năng siêu việt nào cả, cũng không phải là tin một thượng đế vô hình, mà nó là đức trọng (vertu), phẩm của phẩm (qualité), giá trị của giá trị (valeur). Vì là giá trị nên phải cảm nhận nó bằng luân lý, đạo lý, tâm linh, và không bao giờ mua bán nó được; không bao giờ “đánh lận con đen” với nó được. Triết học luân lý và tâm lý học xã hội cùng nhìn nhận rằng niềm tin vừa là hành vi, vừa là phong cách làm nên nhân cách của nhân tâm, đặt niềm tin vào nhau để cùng nhau đối phó với các hoạn nạn trong cuộc đời, từ đó có chuyện che chở nhau, bảo vệ nhau, trong tương trợ (entraide), một loại tình người có vai vóc cao nhất. Che chở nhau, bảo vệ nhau, tức là đang củng cố quan hệ giữa người với người, ngày thêm vững, thêm mạnh, thêm chắc, chấp nhận mọi thử thách, trước các biến thiên của kiếp người, dấn thân vào giông tố, vào bão táp mà không sợ lẻ loi, không sợ bị bỏ rơi, tôn giáo làm được chuyện này trong lịch sử của nhân sinh. Nếu tôn giáo dùng niềm tin để đi tìm con đường tâm linh, rồi cứu rỗi con người ra khỏi hoạn nạn, như vậy kết tội tôn giáo là thuốc phiện của quần chúng là một thái độ rất hồ đồ. Còn hiện nay, nhiều kẻ tu hành, từ thượng toạ tới hoà thượng, mượn chùa chiền để tổ chức các trò mê tín, dị đoan, chiêu hồn, cầu vía để làm thương mại bất chính, lại là một chuyện hồ đồ khác, vì họ đang nạo rỗng niềm tin của các tín đồ của họ. Có một điểm trọng tâm trong mọi niềm tin là ý lực muốn chuyển khổ đau thành hạnh phúc, niềm tin mà đích thực thì gọi là chánh tín, nó đòi hỏi phải được thực chứng, tức là được thể nghiệm qua sự thật, cả hai được nuôi dưỡng bằng hai nội lực của nhân tâm là: ý chí và ước mong, mang chiến bào cho niềm tin, tên gọi của nó là chí nguyện. Niềm tin là rễ sâu nếu nó sống trên đất, niềm tin là dòng chảy nếu sống với nước, xuyên thời gian, nó ngược lại với chuyện tuyên truyền, nhồi sọ trong ý thức hệ chính trị, nó ngược xa với chuyện “buôn thần, bán thánh” qua mê tín, dị đoan trong một số nơi thờ tụng hiện nay. Những kẻ đi buôn chính trị và tôn giáo nên suy nghĩ kỹ: mỗi lần con người mất niềm tin, là họ bị mất hai chuyện: mất lý tưởng và mất hạnh phúc.
Ricœur, trường giang của triết luân lý, bình nguyên thênh thang của hiện tượng luận, cho rằng niềm tin tạo dựng nên cộng đồng, con người vừa muốn sống chung với nhau, vừa muốn chia sẻ với nhau những phương án trong tương lai, nhưng cộng đồng thì rất mong manh, dễ đổ, dễ tan, dễ vỡ, và chuyện sống còn của một cộng đồng luôn tuỳ thuộc vào niềm tin tập thể, vì nó là giá trị gốc của nhân sinh quan trong mỗi cá nhân. Giá trị của niềm tin được nuôi sống như ước vọng vượt qua thăng trầm của lịch sử, nhưng cùng lúc cũng là thực tế luôn xét nghiệm và đánh giá lại niềm tin trước những thử thách mới của thời cuộc, tình thế… trước những chuyện thay lòng đổi dạ của những kẻ thâm, hiểm, ác, độc trong cộng đồng. Tin vào giá trị của cộng đồng thì đừng nên quá khích, chỉ làm ngộp thở các chân trời của các thế hệ sau; tin vào giá trị của một tương lai tốt lành thì đừng buông tay, cúi đầu, vì nội chất của niềm tin là một năng lượng vô song, một nội lực hùng tráng, nó cất giữ trong kho tàng của nó ba kho báu tinh khôi: tự mình biết tôn trọng mình; ân cần với đồng loại trong khó khăn của cuộc đời, tin tưởng vào định chế được sinh ra bởi lý tưởng của niềm tin. Niềm tin không rời hoài bão trong thử thách của thời gian, tin rằng quan hệ tốt giữa người và người sẽ sinh ra được một xã hội tốt, được hỗ trợ bởi những định chế tốt, tin vào cái tốt như tin vào một điềm lành cho hiện tại, cho mai sau. Con người tạo ra niềm tin vì họ tin vào cái tin của họ, đây không phải là lý thuyết suông, mà nó là tiền đề của đạo lý, thượng nguồn của luân lý: lấy cái tốt chế tác ra cái lành, lấy cái lành tạo ra cái hay, lấy cái hay để sản sinh ra cái đẹp. Cho nên, Kant tin là cái thiện luôn gắn liền với cái mỹ; trong mỹ thuật, mỹ học cái luân song hành với cái lý. Niềm tin là cánh cửa mở, nó không phải là cánh cửa đóng, mở để làm ba chuyện: để cảm nhận cái hay, đẹp, tốt, lành; để dựng nên cho bằng được cái thoả ước cùng nhau sống chung trong một cộng đồng, một xã hội biết và hiểu hạnh phúc để có hạnh phúc; để có chung một môi trường đạo lý. Hãy phạm trù hoá ba chuyện này: cảm nhận thuộc về hệ vấn đề giá trị; thoả ước thuộc về hệ vấn đề định chế; đạo lý thuộc về hệ vấn đề của nhân tâm. Đưa chuyện đổi chác vào niềm tin là có lỗi, đưa chuyện mua bán vào niềm tin là có tội. Cái biết, cái hiểu của niềm tin là một loại kiến thức bao trùm, một loại tri thức sắc nhọn; kẻ nào biến niềm tin thành chuyện thực dụng lỗ lời, thì kẻ đó không có chỗ đứng trong cộng đồng. Chuyện niềm tin là chuyện chân trời – tương lai của tương lai – niềm tin rất xa lạ với loại quan hệ “tiền trao, cháo múc”, khi đã “cạn tàu, ráo máng” với nhau, thì lúc đó coi như đã mất niềm tin.
Nhân Tâm-Niềm Tin (P3)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).