Nhân Tâm-Niềm Tin (P1)

Tặng CẤN THỊ THÊU
Các cuộc nghiên cứu, điều tra, điền dã gần đây của khoa học xã hội nhân văn về lòng dân với chế độ hiện nay trên đất nước chúng ta, từ chính trị học qua dân tộc học, từ tâm lý học qua xã hội học, có cùng một mẫu số chung trong kết luận tổng kết là chuyện mất lòng tin của dân chúng đối với đường lối, cách tổ chức và quản lý xã hội của Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN). Lý giải bằng các dữ kiện cụ thể trong đời sống hàng ngày, lý luận bằng kết quả thực nghiệm của nghiên cứu, lập luận bằng kiến thức của các ngành khoa học xã hội nhân văn, từ đó rút ra những diễn luận có tuệ giác, là chuyện phải làm của một người nặng lòng với đất nước, cũng là chuyện của mọi thành viên của công đồng Việt tộc, nó không phải là chuyện riêng của một đảng, một nhóm, một phái nào…. Nếu trong lòng dân có chuyện mất niềm tin thì chuyện gì sẽ xảy ra? Chuyện có thể xảy ra là số phận dân tộc đó sẽ bị – hoặc sẽ được – thay đổi, vì lòng tin luôn có chỗ đứng trung tâm trong lòng người, nó giữ thế thăng bằng của nhân tâm trước các biến thiên của cuộc sống, nó sẽ điều kiện hoá mọi lập luận của tác giả và là chủ đề chính của bài này. Quá trình giải luận của bài này dựa trên cách vận hành của niềm tin: niềm tin tổ chức mọi hành động, mọi quyết định, mọi sáng tạo, niềm tin tạo ra cái lý để làm cái lõi cho niềm tin. Một cái lý phải mạnh khi thuyết phục, phải cứng khi lý luận, phải bền trong thử thách và nhất là phải khôn, tức là biết mở cửa khi gặp các lý khác, cũng khôn bằng hoặc khôn hơn nó, như vậy cái lý này nó vừa cứng vía trong đấu tranh, nó vừa nhu thuận trong giao tác, trước các lý khác, “đã mở cõi thì đừng ngăn miền” (Bùi Giáng). Cái lý cũng là cái rễ cho niềm tin; và niềm tin trong bài này hoàn toàn ngược lại với các niềm tin mù quáng, cuồng tín, quá khích, cực đoan, một chiều, chủ quan, huyền hoặc…. Tin vào cái lý, rồi lấy cái lý để hiểu cái tin, lấy cái tin để chế tác cái niềm, cái lòng là câu chuyện chính của bài này.
Niềm tin, lòng tin
Đọc lại Hịch Tướng Sĩ của Trần Hưng Đạo, trong bối cảnh đất nước bị đe doạ, chỉ mành treo chuông, phải lấy ít đánh nhiều, phải lấy yếu đánh mạnh, ta thấy rõ chân tướng của niềm tin lúc đầu chỉ là một hạt giống, là một mầm non dù nhỏ bé nhưng được bảo vệ vững vàng trên lòng tin là một mảnh đất, mà Việt tộc gọi là đất nước, không bao giờ chịu khuất phục bất cứ bọn ngoại xâm nào. Niềm tin không nhất thiết được xây dựng bằng lòng mộ đạo đối với một tôn giáo, lòng tin không nhất thiết được chế tác bằng sự dấn thân tuyệt đối cho một ý thức hệ; tin mình và tin đồng loại trong cuộc sống chung được xây dựng trên đạo lý hay, đẹp, tốt, lành, nó khác xa với các hành vi cuồng đạo, với các hành động cuồng tín. Niềm tin có cội rễ trong quan hệ xã hội, vì lòng tin có ngọn nguồn trong luân lý cộng đồng; nó là sự trông chờ có cơ sở của con người đối với đồng loại của mình, mà không cần một sự can thiệp nào của thượng đế, mà không cần một sự cầu cạnh gì đối với bất cứ tập đoàn lãnh đạo nào, nó là chuyện đạo lý giữa người và người. Hãy tìm cách định lượng, định chất để tìm hướng định nghĩa cho niềm tin: nếu một dân tộc mà tin một chính quyền, một chính phủ, một đảng lãnh đạo, tức là dân tộc đó đang cân, đo, đong, đếm để nghiệm, thử, xét, xem chính quyền đó, chính phủ đó, đảng đó có được chiều cao, chiều dài, chiều sâu, chiều rộng tới đâu, so với lòng tin của dân tộc đó. Và, nếu chính quyền đó, chính phủ đó, đảng đó quá thấp, quá tồi, quá tệ, quá xấu thì chuyện gì sẽ xảy ra? Có ít nhất là bốn chuyện sẽ xảy ra khi mất niềm tin (confiance): thứ nhất là sự xuất hiện của bất tín (défiance), dẫn tới chuyện thứ nhì là ngờ vực (méfiance), chóng chầy gì cũng tới chuyện thứ ba là do dự, chần chừ, phân vân (hésitation), tất cả ba chuyện trên đưa tới chuyện thứ tư, tới hậu quả mất phương hướng trong cộng đồng quốc gia, trước tương lai, sống vật vờ trong tâm lý hoảng sợ sự phản bội (la peur de la trahison). Trong lịch sử trí thức và triết học phương Tây, có một câu chuyện phản bội giữa hai trí thức, giữa hai Nam Tào và Bắc Đẩu của hiện tượng luận trong thế kỷ thứ hai mươi; giữa Husserl, gốc Do Thái, người thầy khai sinh ra hiện tượng học (phénomènologie) (mà dân tộc ta có một chuyên gia tài ba, sắc sảo về trường phái này là bác Trần Đức Thảo). Và môn sinh tin yêu của Husserl không ai khác hơn là Heidegger, chủng tộc Đức, đã cúi đầu, khoanh tay trước thảm hoạ tàn sát người Do Thái, đồng bào của Husserl, do Đức Quốc Xã tổ chức trong đệ nhị thế chiến. Từ thất vọng qua tuyệt vọng trước thái độ kém hèn của Heidegger, mà Husserl đã định nghĩa niềm tin là tình bạn chung thuỷ của tâm hồn còn phản bội là đất của phi nhân, Husserl dặn trí thức hãy thận trọng trước sự phản bội và đừng dung túng, đừng nhượng bộ nó: “Une attaque contre les racines les plus profondes de notre existence”, vì nó tấn công vào cái rễ sâu nhất của nhân sinh, rồi để lại một vết thương sâu đậm giữa những tâm hồn chung thuỷ, nó giết tình người trong trứng nước, nó làm chúng ta bị tổn thương về nhân tính, thiệt hại về nhân phẩm. Nếu niềm tin là người bạn chung thuỷ của tâm hồn, còn phản bội là phi nhân, thì phản bội luôn gây ra một sự chấn thương dài lâu khi con người đoạn tuyệt với niềm tin ban đầu, nhất là khi sự phản bội lấy cái lợi hèn để bóp chết cái lý sáng trong nhân tri, Husserl tin rằng luôn luôn có một vùng tối tăm, mờ ám của sự phản bội, vì kẻ phản bội thường phải giấu cái lý nguyên thuỷ của sự phản bội, và kẻ này chỉ đưa ra cái cớ bên ngoài mà không dám đưa ra sự thật, vì kẻ phản bội biết là luôn luôn có sự liên minh chặt chẽ giữa sự thật – chân lý – lẽ phải, kẻ phản bội luôn rất sợ bị lột mặt nạ. Chuyện xa rồi chuyện gần, chuyện người rồi chuyện ta, trong hơn thế một thế kỷ qua, Việt tộc đã bị phản bội biết bao nhiêu lần trong các chuyện ý thức hệ, trong các chuyện chính trị, trong các chuyện lãnh đạo, mà kẻ bị phản bội là những chiến sĩ kháng chiến đã thấy cảnh cha mẹ mình bị thảm sát trong cải cách ruộng đất sau 1954, thấy niềm tin cách mạng của mình đang bị các kẻ lãnh đạo tồi tệ lạm dụng để giết hại gia đình mình. Chuyện xưa rồi chuyện nay, chuyện hy sinh rồi chuyện bán buôn, các thế hệ chiến sĩ kháng chiến tiếp theo cũng đang thấy bao công lao của mình trong chuyện hy sinh để đất nước được thống nhất năm 1975; giờ đây qua hệ thống hối lộ, tham nhũng, có những lãnh đạo đã bán những vùng, những miền, những nơi, từ núi tới đồi, từ bãi biển tới đảo cho ngoại quốc, cho ngoại bang, thậm chí cho kẻ thù muôn kiếp của Việt tộc là bá quyền Bắc Kinh. Người dân Việt rất tỉnh táo trên chuyện này, sự phản bội này được họ đặt tên bằng trực quan, trực cảm của họ, họ gọi bọn này là bọn bán nước.
Nhân Tâm-Niềm Tin (P2)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).

Bình luận về bài viết này