Chuyển kiếp bằng đa
Hàng chục ngàn kiến nghị của hiền tài, hiền sư, hiền sĩ mỗi năm yêu cầu nhanh chóng và triệt để cải tổ bộ máy chính quyền để cải cách đất nước, đều không được lắng nghe, không được đưa ra bàn cãi; đây là thái độ vừa là vô tri, vừa là bất chính, vì không có tư cách lãnh đạo trong sáng, vì không có nhân cách chính quyền trong sạch. Tệ hơn là từ 40 năm thống nhất đất nước không có một hội nghị, hội thảo nào mà các nhà lãnh đạo trực diện với trí thức, với chuyên gia để cùng nhau tìm cách đưa đất nước đi lên. Trong khi đó các quốc gia thực sự dân chủ thì mỗi ngày các lãnh đạo phải làm nhiệm vụ giáo khoa chính trị để giải thích trước công chúng qua truyền hình, phát thanh, báo chí về đường lối và phương pháp lãnh đạo của mình. Hàng tuần đối thoại với trí thức, với chuyên gia để thực sự gặp được kiến thức mới, được tư vấn hay, được chuyên môn giỏi. Hãy cùng nhau đi tìm một sinh lộ cho Việt tộc bằng cách thành lập một chế độ mà chính quyền theo số đông, chính phủ theo số nhiều, trong đó đa số không phải chỉ là vấn đề định lượng, mà số đông và số nhiều là một hệ vấn đề định chất, quyết định năng lực chính quyền và kỹ năng của chính phủ. Khi mà số đông và số nhiều được hiểu qua “an cư lạc nghiệp”, “sung túc, ấm no”, thì hạnh phúc đã có mặt trong cuộc sống. Người hiểu quy luật số đông và số nhiều một cách cặn kẽ không ai khác hơn là Đặng Tiểu Bình, đã dùng cải cách kinh tế từ 1979, dẫn tới hiện đại hóa Trung Quốc, đưa đất nước này từ nghèo nàn lạc hậu qua sung túc của số đông và số nhiều, với tốc độ nhanh nhất chưa hề có trong lịch sử của nhân loại. Chỉ qua một chuyến “Nhật du”, rồi một chuyến “Mỹ du”, mà nhân sinh quan, thế giới quan, vũ trụ quan của một cá nhân lãnh đạo đã thay đổi toàn bộ, từ đó thay đổi cả số kiếp của một dân tộc hàng tỷ người. Giờ đây chế độ chính quyền theo số đông, chính phủ theo số nhiều đã thành mô hình, rồi thành phương hướng, trở nên một hệ vấn đề nghiên cứu sôi nổi trong giới học thuật hiện nay. Riêng tôi, hệ vấn đề minh quân, minh chúa, minh chủ không hề bị lỗi thời, vì minh quân, minh chúa, minh chủ không theo nghĩa hủ bại của một chế độ phong kiến độc quyền; mà chuyện chính ở đây là chủ từ: minh, vừa là tính từ, vừa là trạng từ trong câu chuyện dân tộc này của chúng ta. Vì chính cái thông minh cá nhân làm gốc cho cái sáng suốt trong chính quyền, làm cội cho cái tỉnh táo trong chính phủ, làm rễ cho cái “nhìn xa, trông rộng” của mọi lực lượng lãnh đạo, vì tất cả chuyện “vật đổi sao dời” đều từ cá nhân mà ra. Vì cá nhân vừa là giá trị sắc bén của tập thể, vừa là mũi nhọn sáng tạo của dân tộc; vì cá nhân vừa thể hiện bổn phận qua chế tác, vừa thực hiện trách nhiệm qua cải cách, đưa tập thể theo hướng thăng hoa, đưa cộng đồng theo hướng thiện mỹ, để số đông và số nhiều được sống trong cái hay, đẹp, tốt, lành giữa hiện tại, trong hiện thực. Ở đây phải nói thật, mặc dầu “sự thật mất lòng”, còn có thể dẫn tác giả bài này tới chuyện bị đe doạ, bị khủng bố, bị ám hại, nhưng sự thật-chân lý-lẽ phải là một tổng thể thuần nhất: hiện nay Việt tộc không hề thiếu hiền tài, hiền sư, hiền sĩ, mà chỉ có ĐCSVN không có minh quân, minh chúa, minh chủ. Một triết gia sáng suốt và một nhà Trung Quốc học tỉnh táo François Jullien, Giám Đốc Viện Tư Tưởng đương đại của Pháp, cùng đi liên tục công vụ đại học với tôi trong nhiều năm liền tại Việt Nam, trên cả ba miền đất nước, đã thổ lộ, đã tâm sự khi nhìn thấy cảnh khốn cùng của dân chúng ta trên đoạn đường xe hoả từ Hà Nội lên Sapa: “Sau bao nhiêu năm dài mà Việt Nam không có một thay đổi theo hướng phát triển đúng, trong khi đó thì Trung Quốc “thay hồn đổi xác” hằng năm, rời kiếp nghèo nàn lạc hậu, giờ lại vào được khu vực tiên tiến, văn minh, không thua kém Nhật Bản, Hàn Quốc trên rất nhiều lãnh vực; cùng trong khu “tam giáo đồng nguyên”, nhưng lạ là Việt Nam vẫn lạc hậu. Nếu các lãnh đạo Việt Nam chưa hiến tặng cho dân tộc Việt Nam: nhân quyền, thì ít ra họ cũng phải hiến tặng dân tộc này: khả năng lãnh đạo của họ, cái xuất sắc nhất của họ, để đưa dân tộc Việt Nam ra khỏi lạc hậu, không bị bỏ rơi quá xa sau Trung Quốc”. Ngân hàng Thế Giới (WB) thẩm định GDP bình quân đầu người năm 2013 của Việt Nam chỉ trên 1000 USD/người, thì ta không nên hãnh diện, vì đó là mức thấp của thu nhập trung bình. Về nợ công thì chủ tịch nước đưa ra một con số, thủ tướng đưa ra một con số khác, với hai nhận định đối nghịch nhau, một chuyện không hề có trong một chính quyền có đường lối. Thông báo quốc tế thì rất rõ là Việt Nam phải dành khoảng 25% tiền thu về cho ngân sách để trả nợ trong năm 2015, với 75% phải nuôi bộ máy nặng nề của nhà nước qua lương bổng, không còn đủ 5% để đầu tư vào các kế hoạch phát triển. Một cổ mà đã hai tròng: phải vay mới để trả nợ cũ, trong một nền kinh tế không có phương hướng chính, không có lý luận về hiệu quả, và rơi nặng vào gia công, tức là rơi vào kiếp làm tôi, làm tớ, làm công, làm mọi cho ngoại quốc. Nếu lãnh đạo mà đưa dân tộc vào kiếp này thì đừng lãnh đạo. Tổ chức đại hội đảng để đưa dân tộc ra khỏi kiếp tôi, tớ, công, mọi thì nên tổ chức, chớ tổ chức đại hội đảng để tranh giành quyền bính, củng cố tư lợi thì đừng tổ chức đại hội đảng, nhục lắm! Mất nhân cách lãnh đạo lắm!
Đề nghị 5: Sự chủ động sáng tạo của nguyên tắc bình đẳng để chống lại cái lạm quyền, tức là phạm luật, vì lạm quyền của chính quyền là một trong những nguyên nhân chính trong quá trình sụp đổ của hệ thống cộng sản ở cuối thế kỷ qua. Nguyên tắc bình đẳng không có sẵn trong văn hóa, trong xã hội, chuyện bất bình đẳng giữa nam nữ, chuyện bất bình đẳng giữa giàu nghèo vẫn còn trước mắt chúng ta. Nhưng nhân phẩm của nguyên tắc bình đẳng là động cơ sáng tạo, thúc đẩy chúng ta dùng đạo lý, dùng luật pháp, dùng kiến thức, dùng khoa học, để giải quyết bất bình đẳng, thay thế bằng cái hay, đẹp, tốt, lành của bình đẳng. Cho nên có văn hóa, chưa chắc có văn minh, vì muốn có văn minh thì phải có một hệ thống pháp lý chống bất bình đẳng. Giữa văn hóa và văn minh, Việt tộc còn có thuật ngữ văn hiến, chúng ta nên cho nó một nội dung chính đáng, vì với số lượng bất bình đẳng ngập trời hiện nay, số lượng bất công tràn đất hiện tại, thì Việt tộc có còn giữ được bốn ngàn năm văn hiến của mình không? Luật là hệ thống của quy tắc, vừa để bảo vệ quyền lợi của mỗi cá nhân, vừa để đảm bảo đa nguyên trong khác biệt về quyền lợi giữa các cá nhân, bè nhóm, đảng phái… trong đó mỗi cá nhân có tự do thực hiện quyền lợi của mình và tổng thể của các quyền lợi của một dân tộc chính là hạnh phúc của dân tộc đó nếu được một chính phủ đủ trình độ thực hiện, một chính quyền đủ năng lực hoàn thành sứ mạng này. Như vậy, pháp lý sinh ra luật pháp không bằng giáo điều cứng ngắc, mà bằng một hệ thống nhân bản trong đó lý luận sinh ra lập luận, lập luận dẫn tới giải pháp, giải pháp chế tác ra kỹ thuật quản lý, để quyết định kỹ năng của các lãnh đạo trong chính quyền. Bổn phận của pháp lý không phải để quản lý các dữ kiện xã hội, mà để bảo đảm quyền làm người của chủ thể, được định nghĩa từ cá nhân, giờ đây đã biết sáng tạo ra quyền lợi của chính mình bằng tự do cá biệt của mình mà cùng lúc nhận trách nhiệm, bổn phận của mình đối với xã hội.
Nhân Lý Trọng Nhân Trí (P6)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).