Theo quyển sách Duy Văn Sử Quan (Hoàng Văn Chí 1988)
Duy Văn Sử Quan là công trình nghiên cứu của học giả Hoàng Văn Chí vào cuối đời ông. Người viết đã phụ giúp việc đánh máy và bỏ dấu (lúc chưa có phần mềm tiếng Việt) và được nghe tâm sự của ông về cuộc tranh luận với linh mục Kim Định cùng nhà văn Bình Nguyên Lộc về nguồn gốc dân tộc Việt và văn hóa Việt. Không mấy ai chú ý hay đánh giá sự quan trọng của một loại DUY mới có liên quan đến vận mệnh dân tộc và tương lai nước Việt vì mọi người còn sôi nổi với các biến cố chính trị 1980s tại hải ngoại, cho tới khi bài học về Trump xuất hiện đánh dấu sự thay đổi trong đời sống đã ảnh hưởng đến con người như thế nào.
Duy Văn Sử Quan chủ trương văn hóa (đời sống con người trong xã hội) là yếu tố chính quyết định sự thay đổi (hưng thịnh hay suy tàn) của một dân tộc theo như kinh nghiệm của học giả Hoàng Văn Chí đã sống qua thời kháng chiến chống Pháp (cùng với Hồ Chí Minh), sống dưới chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa và sau đó sang Ấn sinh sống, cuối cùng định cư tại Mỹ.
Lịch sử và văn hoá Việt Nam (VN) đã hình thành và kết chặt với cuộc sống của mỗi người Việt. Những thay đổi của lịch sử, văn hoá tạo nên đặc tính của dân tộc. Đó là tương quan hai chiều (hỗ tương nguyên nhân). Nếu hiện tại chúng ta thụ động để các thế lực khác quyết định những biến cố hiện đại thì khi nhìn lại quá khứ hôm nay chúng ta sẽ thấy khó khăn của tương lai. Nếu chúng ta có hành động tích cực hôm nay thì cho dù chưa thay đổi được hiện trạng hôm nay nhưng chúng ta có thể nhìn thấy tương lai sẽ như thế nào là tùy theo nỗ lực chúng ta thực hiện có kết quả hay không.
Học giả Hoàng Văn Chí thường dẫn chứng về sự suy tàn của đế quốc La Mã (Rome) và nền văn minh Ai Cập, Maya (Mễ). Tuy là một nhà nghiên cứu, khoa học (ông làm chủ hãng làm tương Cự Đà tại Maryland) nhưng trong các cuộc tranh luận với LM Kim Định, Bình Nguyên Lộc về nguồn gốc dân tộc Việt không đạt được kết quả vì thiếu tương quan triết học-khoa học-sử học. Tranh luận về triết học thường dựa vào các dữ kiện lịch sử nhưng cần có lý luận với các nguyên tắc có tính khoa học. Đó là điều Duy Dân ghi nhận khoa học-triết học-sử học thống nhất.
Người viết thực sự còn nhiều nghi vấn về Duy Văn Sử Quan nhưng chưa có dịp tìm hiểu sâu hơn và thảo luận với cụ Hoàng Văn Chí. Sau này khi tìm hiểu về Duy Thức và Duy Dân mới thấy vai trò của Duy Văn Sử Quan trong xã hội.
Tương quan giữa các DUY
Gần 40 năm sau, đi qua Duy Thức và Duy Dân để thấy rằng Duy Văn Sử Quan có giá trị và tầm nhìn của nó về mặt con người. Khi Duy Thức giải thích về các diễn tiến của Tâm con người qua đời sống (văn hóa) từ khi sinh ra với Tâm và Thân thì tác động bên trong và ngoài của cá thể tạo nên Ngã. Và khi có “tôi” và “thế giới” thì mọi sự phát sinh qua “Thức”. Hiểu được “Thức” thì hiểu đời sống con người.
Trong khi Duy Dân đi tìm một cuộc cách mạng khởi đi từ con người biết tu dưỡng để thay đổi xã hội. Không có giải thích rõ về tu dưỡng ra sao nhưng đòi hỏi thì gần giống như lối tu của Phật, Lão nhưng thay vì giải thoát khỏi xã hội (xuất thế) thì Duy Dân đòi hỏi con người quay lại để xây dựng xã hội.
Con đường nối liền giữa cá nhân và xã hội là hoạt động hàng ngày của cá nhân và xã hội. Đó là văn hóa. Khi kiến thức, học thức, tri thức chỉ là ngọn ngành của Tâm và Thân. Có Thân mới dẫn vạn sự đến Tâm qua Thức. Duy Thức ngụ ý chỉ có Thức mới nối liền sự việc trong đời sống con người. Căn và cảnh sẽ đi mỗi hướng và không kết thành Tâm Thức nơi con người.
Khi con người sống và ý thức hoàn cảnh xung quanh, người và vật, thiên nhiên. Sự tương tác tạo thành lịch sử, văn hóa, xã hội. Sinh hoạt (văn hóa) của một dân tộc là chính trị đi vào quá khứ tạo thành lịch sử (chính trị hôm nay là lịch sử ngày mai). Con người xấu thì lịch sử xấu. Vì vậy Duy Dân đề nghị con người phải có tu dưỡng để làm cách mạng xã hội. Công bằng xã hội phải từ con người biết sự công bằng từ bản thân.
Để hiểu thế nào là công bằng phải biết sự giao hoán, hỗ tương, tác dụng Âm Dương, nhân quả, bình đẳng cũng như nguồn gốc của Tham-Sân-Si tạo nên tâm lý ham muốn, chiếm đoạt, ganh tỵ… đã được tư bản lẫn cộng sản khai thác để thao túng xã hội bằng quyền lực chính trị.
Tiến trình đó trải qua các sinh hoạt hàng ngày trong đời sống con người. Đó là văn hóa. Những gì con người viết, nói, làm hôm nay được truyền lại cho thế hệ sau qua những sản phẩm hay phó sản trong sinh hoạt hàng ngày. Nhìn vào một dân tộc hôm nay qua lăng kính của lịch sử đã qua. Những gì xảy ra hôm nay là hậu quả của hôm qua và là nguyên nhân của ngày mai.
Tiến trình này giống như Duy Thức giải thích: các ngũ quan (5 căn) của mỗi người thấy những cảnh bên ngoài được phối hợp (6 căn) để chuyển (7 căn) vào tâm (8 căn). Tùy theo sở thích mỗi người sẽ lưu giữ ABC trong tâm và loại bỏ DEF. Thời gian và hoàn cảnh đóng góp một phần vào quyết định lưu trữ (hay bác bỏ) các dữ kiện trong tâm. Yếu tố khác là sự tu dưỡng (Duy Dân): đứng ngoài tiến trình đó để phán xét (tự hỏi tại sao, vì sao, nếu XYZ, hậu quả là gì) hay tự kỷ để nhìn thấy toàn bộ chu kỳ của biến cố hay hành động đòi hỏi khả năng lý luận để nhìn xa hơn.
Vậy nếu Duy Thức là nền tảng chung của mọi cá nhân thì Duy Dân là nỗ lực của cá nhân và Duy Vật là nỗ lực của tập thể. Duy Thức chỉ giải thích, không bắt buộc hay chỉ dẫn làm gì, như thế nào để kiểm soát hay thanh lọc các nguồn (cảnh) xâm nhập nội tâm và tạo ảnh hưởng tốt xấu. Duy Dân chỉ ra cá nhân phải tu dưỡng để thay đổi xã hội (cách mạng). Nếu tự kỷ là phần của Duy Thức thì Động tha và Ỷ tha là phần của Duy Văn Sử Quan. Duy Văn Sử Quan chỉ ra từ lời nói, ngôn ngữ, hành động… sẽ dẫn đến thay đổi nhưng nếu con người không quan tâm thì sẽ không biết sự thay đổi bắt nguồn từ đâu (sự nói láo).
Luận Bàn Về Duy Văn Sử Quan (P2)
Trần Công Lân
Tháng 1 năm 2024 (Việt lịch 4903)