Nhân giáo
Xếp dân tộc Việt Nam vào khu vực tam giáo đồng nguyên (Khổng giáo, Lão giáo, Phật giáo) như Hàn Quốc, Nhật Bản xung quanh Trung Quốc cũng chưa rõ chuyện; thêm vào đạo thờ ông bà để nói lên cái đặc thù của văn hoá Việt Nam vẫn chưa đủ chuyện, phải thêm vào một đặc tính mạnh của Việt tộc là biết thờ các triều đại, các công thần đã cứu nước, đã giữ nước, từ đền Hùng đến hằng trăm nơi thờ tổ, thờ thần đã phù hộ độ trì dân tộc vượt qua những thăng trầm của đất nước. Đặc tính này đã thành cá tính của dân tộc, Việt tính vượt không gian, xuyên thời gian. Liên tục các cuộc điền dã từ Bắc vô Nam, tôi cũng quan sát được hai chuyện khác, chuyện thứ nhất: hải phận ta bị cưỡng chiếm, mọi người Việt từ già đến trẻ, ai cũng thấy như bị xúc phạm tới tận nhân cách của mình, thấy lửa đỏ con ngươi (Thanh Tâm Tuyền). Chuyện thứ hai, tôi không thấy người Việt nào tỏ ra sợ hãi, rụt rè trước Trung Quốc. Không biết sợ là sức mạnh của nhân, vì nhân luôn phải dựa trên sự can đảm, chấp nhận hy sinh để giữ gìn nhân phẩm, bảo vệ nhân cách.
Nhưng cùng với luân lý tập thể trong giáo dục, ta phải nghiên cứu, phân tích tâm lý tập thể của ta. Trong những trận đánh mà dân tộc ta thắng lớn trước ngoại xâm phương Bắc, lãnh đạo ta luôn sáng suốt, đồng bào ta luôn tỉnh táo. Sáng suốt và tỉnh táo là chủ nhân tính của chủ thể, tự mình trách nhiệm từ quyết định tới hành động, từ đàm phán tới phản công; rồi từ đó đảm nhận luôn cả sáng tạo của mình trong mọi bối cảnh để đối phó một cách hữu hiệu nhất với đối phương. Kinh nghiệm ông cha ta đối với Trung Quốc bá quyền là chúng ta nhận ra được các kẻ lãnh đạo của nước lớn này là những kẻ: thâm, hiểm, độc, ác; những kẻ có bốn loại hành vi này là những kẻ luôn nguội lạnh với đạo lý, luôn thờ ơ với luân lý. Những kẻ vừa nguội lạnh, vừa thờ ơ trước nhân tính là những kẻ có cái sáng suốt của riêng họ trước tư lợi, có cái tỉnh táo của riêng họ về hành vi vô nhân trước con tính ích kỷ của họ. Chính vì vậy, ta cũng phải sáng suốt và tỉnh táo, không nóng nảy vội, không nổi giận mau, nếu không sẽ rơi vào bẫy của họ.
Phương Tây có câu châm ngôn: Chuyện ân oán là một món ăn nguội, nguội để tỉnh, lạnh để thấu…. Khi họ chiếm Hoàng Sa, rồi Trường Sa, họ đã tính toán rất nguội lạnh trong nhiều năm, bằng cách thao túng kinh tế, tiêu diệt công nghiệp, huỷ hoại thủ công, giật dây nông nghiệp, mua chiếm tài nguyên, phủ ám thị trường của Việt Nam. Biết bao ngành nghề đã lọt vô cạm bẫy của họ, biết bao lãnh đạo đã bị mua chuộc, hối lộ bởi họ. Dài lâu, nếu muốn thoát ức chế của Trung Quốc, Việt tộc chúng ta phải tìm ra lối đi sáng tạo như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapour, không chấp nhận đời làm công cho ngoại quốc với lương bổng thấp, với phong cách tiêu thụ dễ dãi hàng nước ngoài; nếu lãnh đạo sáng suốt thì sẽ xoá được kiếp dở để đổi lấy nhân hay cho dân tộc.
Ông bà ta có dặn con cái nên quan sát kỹ đối phương: khôn qua hoá dại. Chính hành động cướp giật thô bạo hải phận Việt Nam đã đưa Trung Quốc vào một cái bẫy mới mà họ hoàn toàn chưa có ý thức đầy đủ: tưởng là khôn nhưng họ đã thật dại khi lập lại hành vi bạo ngược, thô thiển trong chuyện chiếm đất, chiếm biển của các nước láng giềng như họ đã làm trong quá khứ. Thế giới đã hoàn toàn đổi thay trong thế kỷ mới của toàn cầu hoá, trong đó, công pháp quốc tế giữ được nghiêm minh để bảo vệ sự tôn trọng chủ quyền của nhau. Giật dây động rừng, chỉ cần giật một dây trên lãnh thổ Việt Nam, tất cả rừng năm châu bừng tỉnh, thấy được bản chất thô bạo, ngược nhân của họ. Trên mặt trận mà nhân loại hoà đồng dựa trên nhân tính, họ đã làm một chuyện trái chiều, vô tri, cướp đoạt trắng trợn. Mặt trận Liên Minh Toàn Châu Á chống Trung Quốc tự nó hình thành, vì tất cả các nước láng giềng với Trung Quốc đều là nạn nhân mất lãnh thổ vì bá quyền Trung Quốc; từ Tây Tạng qua Nhật Bản, từ Ấn Độ tới nhiều nước Đông Nam Á đều có xung đột lãnh thổ với Trung Quốc. Ăn ở không có nhân, thì chóng chầy rồi sẽ thấy là mình sống không có hậu. Chúng ta có thể hình dung được số phận của người Trung Quốc trong những năm tháng tới, đi tới đâu đều bị ngờ vực, bị canh chừng, thậm chí bị xua đuổi, như cái nhân phải đuổi cái tà để giữ cho nhân tính được trong sáng, nhân cách được trọn vẹn. Sau thế chiến thứ hai, người Đức bị ruồng rẫy mọi nơi, vì họ bị xét xử như tội phạm đã gây ra thế chiến thứ hai; làm thiệt mạng bao triệu người; từ đó người Đức sống giữa nhân loại mà không có tâm giao, sống giữa nhân sinh mà không có đắc khí, sống giữa đồng loại mà không có bạn bè, láng giềng theo nghĩa nhân, nghĩa đạo của tình người. Đã hơn nửa thế kỷ qua, hình ảnh tà này vẫn ám nhân dân Đức, ăn ở không yên, đi lại không ổn. Nếu chúng ta ý thức được chuyện này, chúng ta phải tìm ra một nhân giáo cho dân tộc ta. Kể từ thời điểm này, chúng ta sẽ không đi xâm chiếm lãnh thổ, xâm lược hải phận của bất cứ láng giềng nào. Nhân giáo phải có chỗ dựa là nhân trọng, trọng mình để trọng người, vì biết người để biết ta. Chuyện nhân sử trong quan hệ của hai nước Trung Quốc và Việt Nam, về cách đối nhân xử thế, về cách ứng xử giữa láng giềng, có nhiều chuyện thật lạ, chẳng hạn như chuyện người Nam ta gọi cái ly, thì người Bắc ta gọi là cái cốc, chữ cốc là cổ ngữ của người Trung Quốc, mà hiện nay chính họ cũng không biết cốc tức là cái sừng trâu trong tiếng Hán xưa, mà các chuyên gia cổ văn, cổ sử của Trung Quốc phải tới Việt Nam để tìm về nguồn cội các ngữ pháp của họ; như vậy dân Việt Nam đã giúp dân Trung Quốc bảo giữ kho tàng ngôn ngữ Hán tộc của họ. Trước thái độ vô nhân từ ngoại giao tới quân sự, từ kinh tế tới môi trường của các nhà lãnh đạo Bắc Kinh, chúng ta có thể thành thật khuyên họ là họ có thể tới Việt Nam để học chữ nhân của Khổng Tử, Mạnh Tử, Trang Tử, nếu một ngày kia họ thấy họ đã lạc đường trước đạo lý, lạc lõng trước luân lý, không bè, không bạn giữa nhân sinh.
Nhân và Việt (P6)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).