Nhân tính
Rousseau có phân tích rõ và gọn về nhân tính: «les hommes soyez humains», con người ơi hãy giữ nhân tính, như vậy không phải làm người là có nhân tính, có những kẻ sống cả đời mà không có nhân tính, muốn có nhân tính phải có giáo dục về đạo lý (giáo lý), phải được tu tập về luân lý (nhân lý). Giáo lý là chỗ dựa cho nhân lý; chuyện này đã rõ trong triết học luân lý hiện đại mà Ricœur đã đúc kết được: kẻ có nhân tính là kẻ tự tôn trọng mình nhưng không quên ân cần và hữu ích cho người khác, mong muốn có một cuộc sống hay, đẹp, tốt, lành và đòi hỏi xã hội cùng các cơ chế phải thực hiện và bảo đảm những cái hay, đẹp, tốt, lành đó. Đây cũng là chính nghĩa của ta khi đối mặt, đối đầu, đối kháng với Trung Quốc, khi chúng ta có đạo lý (hay, đẹp, tốt, lành) thì chúng ta sẽ có luân lý (trách nhiệm và bổn phận) để bảo vệ những cái hay, đẹp, tốt, lành này. Nhưng chúng ta cũng phải cẩn trọng, vì trong lịch sử thôn tính, chiếm đoạt, ức chế, đô hộ Việt Nam, người Trung Quốc sẵn sàng có hành vi: đường ở mồm (有嘴就有路), trong điêu khẩu của họ: lưỡi không xương nhiều đường lắt léo. Gian trá là vốn của họ, nói một đàng, làm một nẻo (出尔反尔;说一套作一套), xảo quyệt là phản xạ của họ, vừa ăn cướp vừa la làng (贼喊徒贼); không ngần ngại trong chuyện gắp lửa bỏ tay người (以邻为壑), không thấy ngượng trước chính thái độ sáng nắng chiều mưa (朝令夕改) của họ. Quen thói nước lớn vô phép, họ tự cho phép: được voi đòi tiên (得一望十;这山望着那山高; 骑马找马;得陇望蜀). Khi vào đàm phán với họ, chúng ta sẽ phải gặp loại người: dai như đỉa đói (韧如饿蛭), mà ông cha ta đã gọi là: dai như giẻ rách. Gần đây, chính khách phương Tây đã nhận diện ra được loại người này trong ngoại giao của Trung Quốc và đồng ý gọi họ là: des vieux torchons (giẻ rách cũ). Song song với cách ngoại giao lưỡi gỗ vô tri, loại này còn có một khẩu thuật khác trong đàm phán là: cáo đội lốt hổ hoặc cáo mượn oai hùm (狐假虎威). Nếu ta có chính nghĩa thì ta đừng nản lòng với bọn này, mà ngược lại phải xếp loại cho đúng tên, phân tích cho đúng chữ để lột mặt nạ bọn này trên chính trường quốc tế bằng cách hiểu và sử dụng vững vàng châm ngôn, tục ngữ, dân ca… của chính nhân dân Trung Quốc để vạch rõ chân tướng bọn này với thế giới. Chúng ta bắt buộc phải làm chuyện này, vì những năm qua Trung Quốc nghiên cứu rất kỹ về Việt Nam, có dày đặc các chuyên gia về Việt Nam, bên cạnh hàng trăm chuyên gia về công pháp quốc tế và luật về thềm lục địa. Cẩn trọng hơn nữa là trò ném đá giấu tay từ chính trị qua thương mại, sẵn sàng phối hợp nội gián gây ung thư trong nội bộ Việt Nam, cùng lúc giở trò mê hồn trận xung quanh biên giới, với giọng điệu ngoại giao giả dối khẩu Phật, tâm xà trước thế giới. Độc địa hơn, chúng sẽ tìm ra trên chính đất nước Việt Nam loại vong nô bán nước, khai thác trò phản quốc, như Kiều Công Tiễn, Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, cõng rắn cắn gà nhà, loại người vừa run sợ trước thiên triều, vừa chìm ngợp trong tư lợi. Nhưng loại này rất ít, rất hiếm, rất lẻ loi trong Việt tộc, vì nếu loại người này đông đúc, thì ta đã bị đồng hoá từ lâu rồi. Nhưng phải cẩn trọng để không bị thiệt hại vô ích, cẩn trọng để khử trừ một cách sáng suốt cái liên minh giữa các bọn xấu sau đây: cõng rắn cắn gà nhà (背蛇害家鸡), rước voi về giày mả tổ (招象踏祖坟), nuôi ong tay áo, nuôi cáo dòm nhà, vì bốn loại này có cùng một ý đồ rất tồi: thừa nước đục thả câu. Loại tạp nhân này chỉ thấy tư lợi trong khi đất nước bị đe dọa bởi ngoại xâm để đục nước béo cò (浑水摸鱼). Loại liên minh tạp lý bán nước kiểu mượn gió bẻ măng (趁火打劫) này sẽ có chung một số phận gieo nhân nào, gặt quả ấy (种瓜得瓜、种豆得豆); chúng sẽ không có tuổi thọ dài lâu, vì nếu chúng chọn lối đi vong quốc, thì chóng chầy chúng sẽ vong thân, vong hồn rồi sẽ thành cô hồn, chết bờ chết bụi, với kiếp tứ cố vô thân.
Nhân nghĩa
Trong Khổng giáo, người Trung Quốc tôn sùng chữ trung, trung với vương, với triều, với tộc…. Việt Nam ta trọng dụng chữ nghĩa, vì nó là độ bền của nhân tính, chiều dài của nhân trí, kiên trì với thời gian, chấp nhận thử thách của mọi thời cuộc: «đường dài ngựa chạy biệt tăm, người thương có nghĩa mấy năm cũng chờ », chấp nhận thử thách như mở lối cho tính kiên trì, vun đắp trên mảnh đất của tính nhẫn nại. Thức khuya mới biết đêm dài, chữ dài là cột xương sống của chữ nghĩa, đường dài hay thời gian dài là chuyện nhân sinh; nhưng khi tình ái, tình yêu, tình thương đã thành tình nghĩa, thì chữ dài sẽ kết với chữ lâu: sống lâu mới biết lòng người có nhân. Nghĩa như vậy vừa là cội rễ của nhân phẩm, vừa là đường đi nẻo về của nhân tính. Trong nghĩa vừa có đường dài của thời gian, lại vừa có gân cốt của ký ức, đủ sức nối kết quá khứ với hiện tại. Nghĩa còn đủ bản lĩnh đặt nền cho ân, từ đây luân lý có thể trở thành giáo lý, đây là chuyện vừa nguồn, vừa gốc của nhân lý mà cũng là chuyện thân, cành, ngọn, lá của nhân trí. Nghĩa bắt ta trải nghiệm, để có kinh nghiệm như một kiến thức vững chãi, dần già sẽ thành ý thức: hải đăng của nhân tính. Chúng ta phải đủ nội công để gạn đục khơi trong trong chuyện ân oán với Trung Quốc, cái gì hay, đẹp, tốt, lành của họ ta học; cái gì xấu, tồi, độc, ác của họ ta khử, ta dẹp, ta loại. Nếu phải mang ân, ta mang ân cho trọn vẹn; nếu phải loại trừ cái bất nhân, vô nhân, ta đừng nhượng bộ; chính những người trung quốc chân chính, yêu công bằng, trọng nhân ái, muốn ta làm được điều đó để thức tỉnh các lãnh đạo tham tục Trung Quốc hiện nay. Đây là tiền đề cho việc đánh rắn dập đầu (除恶务尽;打落水狗).
Có nền gốc nhân nghĩa của cha ông, phải có thông minh tạo ra các nhân nghĩa mới cho thời nay và đời sau, trước hết là đối với các láng giềng gần nhất chung bán đảo Đông Dương với ta: Campuchia và Lào, nếu họ đồng cảnh ngộ với ta trước đe doạ của Hán triều, thì ta phải ăn ở có nghĩa tình dài lâu với họ. Đổi bà con xa mua láng giềng gần. Vì sao? Vì những năm qua, lãnh đạo Trung Quốc rất thâm độc trong ý đồ tách Việt Nam ra hai láng giềng này. Một mặt thì thao túng kinh tế, thương mại, thị trường, cùng lúc phân hoá giới các lực lượng lãnh đạo chính quyền Việt Nam; mặt khác thì chiêu dụ hai láng giềng này qua đầu tư, hợp tác, cùng lúc lẳng lặng đào tạo cán bộ cấp hạ tầng và trung tầng cho hai láng giềng này, rồi gài người thân thiên triều dày đặc trong các guồng máy, trong các cơ chế. Hãy đoàn kết chặt chẽ với hai láng giềng gần nhất trên chính nghĩa của nhân tính, tạo ra một niềm tin mới dựa trên nhân đạo, trên tinh thần coi trọng lẫn nhau. Rộng hơn nữa là Đông Nam Á, xa hơn nữa là cả Châu Á, cũng cùng một cảnh ngộ với Việt Nam là bị chủ nghĩa đại Hán đe doạ xâm chiếm. Ở đây, Việt Nam ta có một kinh nghiệm mà các láng giềng Châu Á không có: ta biết đánh và biết thắng Trung Quốc, một trải nghiệm kéo dài hằng ngàn năm. Báo cho láng giềng Châu Á biết: Đừng sợ Trung Quốc! Không có gì phải sợ! Hãy học kinh nghiệm chiến đấu của Việt Nam: nhân nghĩa Việt là kinh nghiệm bản sắc Việt: đánh cho để đen răng, đánh cho để dài tóc. Trung Quốc là Trung Quốc; Việt Nam là Việt Nam. Hán triều đừng nhầm lẫn trên chiến trường văn hoá này. Nhân nghĩa Việt là kinh nghiệm quyết tâm Việt, quyết chiến và quyết thắng: đánh trận đầu cho xác xơ kinh ngạc, đánh trận sau cho tan tác chim muông. Nhân nghĩa Việt là kinh nghiệm nhân đạo Việt, đánh thắng rồi thì mở lối cho về lại «Hán hương», không đánh chặn, đánh diệt, đánh đòn thù… mà là đánh đuổi, đánh xua, đánh cho về, có khi cho thêm lương thực và ngựa xe để về cho mau… Lấy nhân hiếu hoà nuôi nghĩa hoà bình. Thái độ tham tục chiếm biển hàng xóm của Trung Quốc đã vô tình đẩy Tây Tạng và Nhật Bản gần với Việt Nam, rồi sẽ làm cho Philippines, Mã Lai, Nam Dương gần với Việt Nam hơn nữa, từ đó củng cố chính nghĩa Việt Nam, bồi đắp cho nhân nghĩa Việt Nam. Trong những ngày tháng tới, Việt Nam phải tỏ ra đủ vai vóc, gân cốt đại diện cho nhân nghĩa cả Á Châu trước bọn thô lậu Bắc Kinh, thích ăn trên ngồi trốc giữa thiên hạ. Sau cùng, nếu ta biết là ta sẽ ăn đời ở kiếp tại Châu Á này với các làng giềng gần xa trước hoạ bá quyền Trung Quốc thì ta nên đối xử như ông bà ta dặn: xem nhau như bát nước đầy là hơn.
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).