TRUY HỦY VIỆT TỘC : (LÊ DUẨN) “ĐÁNH THAY CHO LIÊN XÔ VÀ TRUNG QUỐC”
Với não trạng của tín đồ vô điều kiện với hai đàn anh đầu sỏ lãnh đạo phong trào cộng sản của nửa cuối thế kỷ XX. Chỉ một não trạng cá nhân, đã kéo theo một tập thể mà cụ thể là Bộ Chính Trị thời bấy giờ, cùng lúc kéo cả một dân tộc, cả hai miền Bắc và Nam vào một cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn, với nhiều triệu nạn nhân đã phải nhận cái chết. Với khoảng cách lịch sử cần thiết về thời gian, sau khi đất nước thống nhất, thì não trạng “thí dân, thí nước” để đánh thay cho Liên Xô và Trung Quốc, mà hai tên đầu sỏ phong trào cộng sản thế giới này đã có xung đột với nhau về chính sách quốc tế cũng như tư lợi của chúng ngay trong khi cuộc chiến chống Mỹ (1954-1975). Để sau đó Việt Nam phải nhận hai cuộc chiến tiếp theo: biên giới Tây Nam chống Khmers đỏ bắt đầu năm 1977, biên giới phía Bắc chống Trung Cộng bắt đầu năm 1979, với bao ngàn nạn nhân đã chết. Đây không phải chỉ là chuyện đánh giá sai tình hình của Lê Duẩn về các tư lợi của các đảng cộng sản, sẵn sàng dẫn dắt đồng chí không đồng chính kiến với mình vào tử lộ; mà còn là một loại não trạng hiếu chiến trong tử lộ với sinh mạng của chính đồng bào mình: không hề là một ưu tiên trong quá trình cân nhắc (lý luận tỉnh táo-đề nghị sáng suốt-thảo luận khách quan-quyết định chính chắn-hành động liêm sỉ) dựa trên nhân tính lãnh đạo làm nên nhân đạo chính trị mà một tổ chức chính trị (đảng, bè, phái…) phải có khi buộc đi vào tử lộ của chiến tranh.
VỚI NHIỀU TRIỆU NẠN NHÂN TRONG CUỘC NỘI CHIẾN HUYNH ĐỆ TƯƠNG TÀN
Một cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn, với nhiều triệu nạn nhân, không có nội dung đạo lý, không có ý nghĩa luân lý, không có tư tưởng đạo đức cho tương lai của dân tộc và đất nước; mà chỉ để lại một chế độ toàn trị dựa trên hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc tôn, độc trị). Nơi mà tuyên truyền “chiến thắng chống Mỹ”, “thống nhất đất nước”, “xây dựng đất nước mười lần giàu đẹp hơn”… chỉ để lại một thực trạng hiện nay là của một đất nước cạn kiệt tài nguyên với ô nhiễm môi trường trầm trọng, với một dân tộc nheo nhóc trong túng quẫn, với xuất khẩu lao động để làm lao nô, nô tỳ… cho các nước láng giềng với vị thế quốc tế tủi nhục nhất. Tất cả thực trạng này nằm trong một tâm trạng chung của một ĐCSVN: hèn với giặc, ác với dân, đã và đang mở đường cho Tàu tặc làm ra Tàu họa, Tàu tà sinh ra Tàu nạn… đang phủ trùm lên số phận của Việt tộc. Thấy và thấu nguồn của nó luôn ở cấp thượng tầng, tiếp tục gây ra tội ác trong những năm tháng tới tới hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc tôn, độc trị) với một hệ thống công an trị tiếp tục gây tội ác với nhân dân, nhất là với các đứa con tin yêu của Việt tộc đấu tranh vì dân chủ và nhân quyền cho một tương lai của công bằng, tự do, bác ái.
MỘT TẬP ĐOÀN LÃNH ĐẠO DIỆT DÂN Ở NHIỀU MỨC ĐỘ KHÁC NHAU
ĐCSVN mở đường cho ngoại xâm, trước là cõng rắn cắn gà nhà, sau đó là mang voi về dày mả tổ qua hệ tham (tham quan vì tham quyền, tham ô rồi tham nhũng, tham đất để tham tiền), một bọn nội xâm buôn chức bán quyền để sau đó là buôn dân bán nước. Tội phạm học không ngừng ở các “vở kịch” chống tham nhũng kiểu “đốt lò” của Tổng Bí Thư kiêm Chủ Tịch nước Nguyễn Phú Trọng, mà tội phạm học phải lần tìm gốc, rễ, cội, nguồn để phân tích dây mơ rễ má của hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc tôn, độc trị như một tập đoàn lãnh đạo sát nhân), sẵn sàng thí dân, thí nước qua chiến tranh, tạo ra nội chiến để thực hiện một ý thức hệ ngoại lai, phản dân tộc. Như một tập đoàn lãnh đạo tội nhân, tiếp tục dùng công an trị để đàn áp, khủng bố, truy diệt những công dân yêu công bằng, quý tự do, trọng dân chủ, nâng nhân quyền. Như một tập đoàn lãnh đạo tư lợi của các nhóm lợi ích, được tổ chức như những mafia, sẵn sàng tiêu diệt lẫn nhau qua phản xạ bạo lực di truyền của cộng sản là thanh trừng nội bộ, bất chấp công lý, khinh miệt công pháp, xem thường công luận. Như một tập đoàn lãnh đạo diệt dân ở nhiều mức độ: nhắm mắt mà vơ vét tiền tham ô mặc cho Tàu tặc đang xâm lấn đất, biển, đảo; cúi đầu mặc cho Tàu họa ô nhiễm môi trường, truy diệt môi sinh của đất nước, khoanh tay mặc cho Tàu họan đưa tràn lan thực phẩm bẩn, hóa chất độc cùng với các công nghiệp nhiệt điện, hóa học, luyện thép đầy tội lỗi, gây ra ung thư cấp làng, cấp vùng, rồi cấp quốc gia.
TRUY SÁT NGUYÊN KHÍ QUỐC GIA
Không ngừng ở mức độ cá nhân gây ra tội ác, mà đi xa để đi rộng, đi sâu để đi cao lên tới thượng tầng lãnh đạo, nơi trung tâm của các bạo ý đã trở thành quyết sách, các tà ý đã thành chính sách, các quỷ ý đã thành tử sách đã và đang đưa Việt tộc vào tử lộ! Trong cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn giữa hai miền (1954-1975), xuất hiện một chuỗi hệ luận của tội ác mà những kẻ cầm quyền đã tự cho phép chúng gây tội ác mà không ai được buộc tội chúng là tội phạm. Tư duy tội ác của bọn lãnh đạo này là: “thí lính”, “nướng quân” trong các chiến dịch, trên các mặt trận mà sinh mạng đồng bào của chúng bị đặt thấp hơn chiến thắng trên chiến trường để phục vụ chiến sách của chúng, từ đó mọi chiến thắng phải phục vụ ý đồ dùng tử lộ của lính, của quân như các con cờ để chúng đấu giá, mặc cả, thương lượng cho quyền lực và quyền lợi của chúng. Các lãnh đạo của ĐCSVN gây ra trong cả thế kỷ XX thì không ngừng lại trong khuôn khổ của cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn, giữa hai miền (1954-1975), mà phải đi trở lên thượng nguồn từ khi có ĐCSVN dẫn tới chiêu bài Việt Minh trong kháng chiến chống Pháp. Chính trong thời điểm này đã có nhiều sự cố xác nhận quá trình “thí lính”, “nướng quân”, nơi mà mạng sống của các thế hệ thanh niên đã bị sử dụng trong tham vọng “phải giành chiến thắng bằng mọi giá”, vận dụng trong ý đồ “phải tới toàn thắng bằng mọi giá”.
ĐỒ HÌNH VÀ HẬU NẠN CỦA TỘI ÁC
Trong cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn, giữa hai miền (1954-1975), quy luật độc đảng trong toàn trị, thì bọn lãnh đạo tự cho phép mình độc đoán trong quyết định, mặc cho hậu quả độc hại đến với đồng bào, dân tộc, đất nước. Nơi đây, hằng số “quyết chiến” song hành cùng hàm số “quyết thắng” cho xuất hiện một ẩn số trong tư duy (bất nhân) của kẻ lãnh đạo là: “tử chiến”- với mạng sống của lính, của quân, chớ không phải của chúng. Tội phạm học khi khảo sát các sự cố “thí lính”, “nướng quân” tới từ các tướng bất tài, từ các quyết đoán hồ đồ tới bất nhân của lãnh đạo, các tiên đoán sai lầm của việc dùng quân. Hậu quả của “thí lính”, “nướng quân” tiếp tục xẩy ra trên chiến trường Tây Nam chống bọn diệt chủng Khmers đỏ sau 1977, và bọn Tàu tặc 1979. Không được quên sự hy sinh làm bia đỡ đạn cho quân thù Tàu tặc tại Gạc Ma, nơi mà tên Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng lúc đó đã cấm các chiến sĩ giữ đảo được nổ súng để tự bảo vệ, nếu tên này trực tiếp tạo ra tội ác, thì phải sử hóa hành động phản bội của nó như một tội đồ. Thống kê hóa để định lượng là vai trò của tội phạm học phân tích, không ngừng ở hình sự hóa cá nhân, mà phải đi xa, rộng, dài, sâu hơn nữa để tới một phân tích định lượng về thiệt hại nhân mạng quá lớn lên số phận của Việt tộc cả thế kỷ XX.
TỘI ÁC VẪN ĐANG NỐI ĐƯỜNG CHO TỘI ÁC
Các diễn luận từ đạo lý tới công lý, từ sinh mạng tới tòa án, từ thống kê hóa tới sử hóa một cách khách quan nhất. Đối với Việt tộc, các kết luận sau đây vẫn chưa được minh bạch hóa các lãnh đạo gây tội ác vẫn chưa có tòa án công minh để xử chúng; các lãnh đạo gây tội ác vẫn chưa có sử luận khách quan về chúng; các lãnh đạo gây tội ác vẫn chưa có công pháp quốc tế nhận diện chúng. Trên các nhận định này, lý luận của tội phạm học tổng quan, đề nghị nghiên cứu, điều tra phải tới các nhận định khác: định lượng thiệt hại về tính mạng quá lớn trong chiến tranh so với số phận nghèo nàn trong nheo nhóc hiện tại của Việt tộc. Định lượng thiệt hại về tính mạng quá nhiều trong thời chiến so với các điều kiện vật chất và tinh thần hiện tại mà Việt tộc đang có. Định lượng thiệt hại về tính mạng quá dài trong chiến sự so với chế độ độc tài nhưng bất tài hiện nay, ngày ngày đẩy Việt tộc vào ngu dân trong tuyên truyền. Chế độ độc tài hiện nay không hề có ý thức về sự thật của tội ác, để sáng suốt ra, không hề có nhận thức về tội phạm đang cầm quyền, để làm rõ lịch sử. Nên tội ác vẫn đang nối đường cho tội ác, để tội ác tự nối dài trên số phận của Việt tộc!
BẠO TRỊ: TỘI ÁC CỦA CÔNG AN
Tội phạm học phân tích phải biết đường đi nước bước để tìm tới tội phạm học định hướng nhân bản, mà rõ các định đề của nhân quyền, biết lấy nhân vị của tự do để bảo vệ nhân bản và nhân văn; có nhân tri của dân chủ để bảo đảm nhân lý và nhân tính; nhận nhân đạo của bác ái để bảo hành nhân tâm và nhân từ, tất cả hệ nhân này phải trực tiếp phục vụ cho: nhân phẩm để chống lại tội ác, vô hiệu hóa tội nhân, vô dụng hóa tội đồ, cô lập hóa toàn bộ liên kết tội ác-tội nhân-tội đồ. Với hàng trăm nạn nhân hàng năm bị hành hung, tra tấn cho tới mất mạng trong các đồn công an, và xã hội sẽ không tính được bao nhiêu nạn nhân khác bị tra tấn đến trọng thương, khi về lại được gia đình chỉ vài ngày là tử thương. Việt Nam hiện nay là một trong những quốc gia có thống kê tử xuất trong các đồn công an cao nhất. Đây là một thực tế với các chứng tích về một loại tội ác chỉ có trong các chế độ độc đảng-toàn trị, nơi mà pháp luật của dân chủ, công lý của nhân quyền không sao tới được để bảo vệ các nạn nhân nằm trong bàn tay giết người của cả một hệ thống công an trị, bất chấp công lý.
Giải Luận: Đảng Cộng Sản Việt Nam (P14)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học * Tiến sĩ quốc gia trường gia Cao học khoa học xã hội Paris * Tiến sĩ xã hội học Đại học Nice-Sophia Antipolis * Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa. Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Thành viên Hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.