Giải Luận: Đảng Cộng Sản Việt Nam (P3)

HÈN
Trước Tàu tặc thì cúi đầu để mất đất, khom lưng để mất đảo, quỳ gối để mất biển, nắm quyền mà bị chính dân dán cho khẩu hiệu: “hèn với giặc, ác với dân”, mà hèn với giặc thì làm sao có độc lập, mà ác với dân thì làm sao dân có hạnh phúc. Còn tự do thì hoàn toàn là mơ mòng dẫn tới mơ hảo trong một chế độ quỷ quyền công an trị, đã đày ải những đứa con tin yêu của Việt tộc đấu tranh chống bất công vì dân chủ, tự do và nhân quyền. Những đứa con tin yêu đều bị biến thành các tù nhân lương tâm trong vòng lao lý của một nền tư pháp bị âm binh hóa bởi tà pháp của ĐCSVN, sau khi ngồi xổm lên hiến pháp, giờ thì ngồi-đè-cho-ngộp luôn cả tư pháp. từ khi ĐCSVN cướp được chính quyền để độc quyền cho tới nay 2020, khi ĐCSVN kỷ niệm 90 năm thành lập của họ, thì quá trình độc trị của họ chỉ cho thấy họ là những lãnh đạo không hề biết quản trị đất nước.
RÁC
Quê hương gấm vóc của tổ tiên trong tay họ giờ thì trở thành bãi rác của Tàu tặc, với không khí bị nhiễm ô của Tàu họa, với môi trường bị ô nhiễm từ Tây Nguyên tới Formosa. Bỉ ổ nhất là con dân Việt sa vào xuất khẩu lao động, với con đường làm thuê trong nhục kiếp, trai thì lao nô, gái thì nô tỳ cho các quốc gia láng giềng, ngày càng sinh ra bao kỳ thị khinh miệt người Việt trên các châu lục. Trong tay ĐCSVN, Việt tộc đã bị mất nhân vị ngay trong nhân sinh quan của các lãnh đạo đảng lấy bạo quyền công an trị để nuôi nấng tà quyền tham nhũng trị, lấy ma quyền tham tiền trị để nuôi dưỡng âm binh trị chính là bọn xã hội đen, với côn đồ, lưu manh, du đảng đang ung nhọt hóa đời sống xã hội. Bài học của triết học đạo đức có bạn đồng hành là tâm lý học xã hội đã giải luận rõ: kẻ mất niềm tin sẽ mất tự tin, kẻ không tự tin thì khó tìm được niềm tin. Chẳng lẽ đây là nhân kiếp hiện nay của Việt tộc sao?
RỖNG
Các lãnh đạo của ĐCSVN không dám tới các hội thảo có vai vóc chuyên môn để đối luận với các chuyên gia quốc tế về các hệ vấn đề tự do là tiến bộ, công bằng là nhân quyền và bác ái là dân chủ. Thậm chí, các lãnh đạo của ĐCSVN không có nội lực tự tin để tới các đại học mà đối thoại để đối lý với các sinh viên trong các hội luận như các lãnh đạo của nhiều quốc gia châu Á, châu Phi…. Đây là câu chuyện hoàn toàn thể nghiệm được, khi ta vận dụng ba chuyên ngành sắc nhọn của khoa học xã hội và nhân văn hiện nay; Chính trị học tri thức, tức là chỉ có tri thức luận của chính khách mới làm nên tri thức học của chính sách. Còn chính khách mà vô minh và vô tri thì chính sách sẽ vô giác và vô cảm. Tâm lý học truyền thông, nơi mà nội dung truyền thông của một lãnh đạo có trong ý nghĩa ngôn ngữ mà lãnh đạo đó muốn truyền đạt đã chuyển tải các giá trị nhân bản và nhân văn nào? Từ đây, nội dung truyền thông, ý nghĩa ngôn ngữ, giá trị nhân bản chỉ là một trong tuyên bố, trong lời ăn tiếng nói của lãnh đạo đó. Xã hội học ngôn ngữ, tại đây ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp của một lãnh đạo làm nên thuật ngữ ngay trong chính ngữ của chính khách. Qua ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp, người nghe khi tiếp nhận tin tức, dữ kiện, chứng từ của lãnh đạo này thấy và thấu được nhân tính, nhân lý, nhân cách của lãnh đạo đó.
TRỐNG
Khi các lãnh đạo cùng các chuyên gia quốc tế của phương Tây, từ Âu châu tới Bắc Mỹ, được-hoặc-bị tiếp xúc với các lãnh đạo của ĐCSVN, thì tất cả họ đều nhận ra rằng: các lãnh đạo của ĐCSVN dù có trọn chính quyền trong tay, họ độc tài nhưng họ lại bất tài, họ độc trị nhưng họ không biết quản trị. Khi các lãnh đạo cùng các chuyên gia quốc tế của phương Tây tiếp cận để tìm hiểu về nội công chính quyền, bản lĩnh chính phủ, tầm vóc lãnh đạo của ĐCSVN, thì họ nhận ra rằng các lãnh đạo của ĐCSVN thiếu, vắng, trống, rỗng ba loại kiến thức căn bản sau đây để lèo lái một dân tộc về hướng văn minh vì nhân phẩm.
VẮNG
Khi các lãnh đạo cùng các chuyên gia quốc tế của phương Tây tiếp xúc với các lãnh đạo của ĐCSVN, thì họ nhận ra ngay là lãnh đạo của ĐCSVN vắng ba kiến thức cần thiết cho lãnh đạo. Thứ nhất là kiến thức tổng quát, từ nhân sinh tới nhân loại, từ nhân tri tới nhân trí có rễ của lịch sử, có gốc của văn hóa, có cội của giáo dục, có nguồn của đạo lý… các lãnh đạo của ĐCSVN không có kỹ năng lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận. Họ không có những tri thức cần thiết trong lãnh đạo trước hiện tình của thế giới và họ có kiến thức mờ nhạt về văn hóa Việt, họ có ý thức lỏng lẻo về văn minh Việt, họ có nhận thức lèo bèo về văn hiến Việt…. Thứ nhì là kiến thức chuyên môn, nơi mà một lãnh tụ hay một lãnh đạo phải là chuyên gia có chuyên môn, được giáo dục qua một chuyên khoa, được đào tạo bằng một chuyên ngành. Lại phải liên tục được huấn nghiệp để có chuyên nghiệp sắc nhọn trước tình hình tiến hóa của nhân loại. Ngược lại các lãnh đạo của ĐCSVN cạn cợt với sách lược đoản kỳ, họ lạng quạng với chính sách trung kỳ, họ hời hợt với quyết sách trường kỳ. Thứ ba là kiến thức hợp tác, nơi mà các lãnh đạo của ĐCSVN tự đóng khung vào ý thức hệ xã hội chủ nghĩa viễn vông, mà không có đồ án về liên minh ngoại giao quốc tế, không có dự án về liên hiệp chính trị quốc ngoại, không có phương án về liên kết kinh tế liên châu lục, với tầm nhìn của một toàn cầu hóa mở, rộng, nhanh….
GIẢ
Nhân tính, nhân lý, nhân cách của một lãnh đạo này tới từ nhân tri, nhân trí, nhân văn của hắn, biểu hiện nhân đạo, nhân tâm, nhân nghĩa của hắn trước hằng số của nhân quyền và nhân phẩm của nhân loại. Nên khi xem, xét, tra, kiểm nhân cách, phong cách, tư cách của các lãnh đạo của ĐCSVN, thì ta có các kết quả rất cụ thể, mà đây là một thảm kịch cho Việt tộc là từ ông Tổng Bí Thư của ĐCSVN kiêm chủ tịch nước CHXHCNVN, tới thủ tướng đại diện cho hành pháp, qua tới bà chủ tịch Quốc Hội thì các chuyên gia quốc tế phải kết luận là trình độ học vấn và học lực của họ không hơn một sinh viên cấp cử nhân của các quốc gia phương Tây có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền. Các học hàm lẫn học vị của các lãnh tụ hoặc lãnh đạo của ĐCSVN là cao học hay tiến sĩ, vì các bằng cấp mà họ trưng ra trong lý lịch và hồ sơ cá nhân của họ không hề là kết quả của học thật. Nên các học hàm lẫn học vị của các lãnh đạo của ĐCSVN đến từ một hệ thống giáo dục học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả. Và chỉ có (sự) thực mới vực được đạo, chỉ có học thật-thi thật-điểm thật-bằng thật tới từ học thật bằng học lực mới làm nên học vấn của lãnh đạo. Đối với các lãnh đạo cùng các chuyên gia quốc tế của phương Tây thì chuyện đánh lận con đen trong mua bằng bán cấp để mua chức bán quyền chỉ làm trò hề, trò cười, trò bịp trong hợp tác quốc tế mà thôi!
KÝ SINH
Trong không gian các lãnh đạo của ĐCSVN chính là nơi tập hợp bọn quan tham ký sinh trùng, bọn lãnh đạo ký sinh vật, bọn cầm quyền ký sinh thể, chúng “ăn trên ngồi trốc”, với nhân diện điếm đàng của Mã Giám Sinh: “mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”, với nhân dạng điếm chủ của Tú Bà: “đưa người cửa trước, đón người cửa sau”, với nhân cách điếm hèn của Sở Khanh: “nói lời rồi lại nuốt lời như chơi”. Chúng là bọn ký sinh trùng âm binh trong âm giới địa đạo ma bùn của chúng, chúng tham quyền để tham nhũng, tham ô để tham tiền, và khi bị ra tòa để nhận tội thì chúng mới lộ bản chất ký sinh trùng của chúng. Từ tướng trong quân đội tới tướng công an, từ bộ trưởng này tới ủy viên trung ương kia, lạy van đảng trưởng của chúng hãy tha tội cho chúng. Loại ký sinh này không biết tự trọng, vì không có được giáo dục với chữ tâm, không hề được giáo dưỡng về chữ nhân.
NẠO VÉT RỒI VAN LẠY
Khi bọn quan tham ký sinh trùng, bọn lãnh đạo ký sinh vật, bọn cầm quyền ký sinh thể, nhận tội chúng không biết nhân văn, vì chúng không có nhân tính, chỉ quen lân la lui tới trong âm giới để thanh trừng nhau, thanh toán lẫn nhau vì tư lợi, nên chúng không có nhân lý để phục vụ nhân sinh. Khi nhận tội là chính chúng đã nạo vét tiền tài của dân, nhưng chúng không hề biết xin lỗi dân, mà chỉ van lạy đảng trưởng của chúng bằng bản chất thấp hèn, tới từ bản năng bầy đàn quy phục đầu đàn, mà chúng không có khái niệm gì về nhân pháp lẫn nhân luật. Chúng không biết gì về nhân quyền, nên đã tự phủ nhận nhân vị của chúng, nên dễ dàng chối bỏ luôn nhân bản của chúng. Vì là ký sinh trùng nên chúng không hề biết gì về nhân tâm, nhân từ, nhân nghĩa làm nên nhân phẩm của mỗi nhân vị biết quý trọng và tôn vinh nhân quyền.
ĐA HẬU NẠN
Thảm trạng của bạo quyền độc đảng toàn trị của ĐCSVN từ thế kỷ XX qua tới thế kỷ XXI của Việt Nam là một trường hợp đặc thù đòi hỏi các chủ thể đấu tranh cho đa nguyên, dân chủ và nhân quyền phải có những phân tích sắc trong chính trị học, nhọn trong luật học và bén trong xã hội học. Tại đây, ta phải nhận ra đa hậu nạn của đa bản chất của bạo quyền độc đảng toàn trị của ĐCSVN, từ đó lập ra một hệ thống đa giải luận để thấy những thử thách lớn đang chờ Việt tộc trên con đường đa nguyên để đi tới văn minh của dân chủ, văn hiến của nhân quyền trước các hậu nạn của bạo quyền công an trị; tà quyền tham nhũng trị; ma quyền tham tiền trị; quỷ quyền ngu dân trị; cuồng quyền vô minh trị; cực quyền tuyên truyền trị….
Giải Luận: Đảng Cộng Sản Việt Nam (P4)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học * Tiến sĩ quốc gia trường gia Cao học khoa học xã hội Paris * Tiến sĩ xã hội học Đại học Nice-Sophia Antipolis * Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa. Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Thành viên Hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

Bình luận về bài viết này