CÔNG BẰNG VÀ CÔNG LÝ ĐỂ CÔNG NHẬN CÁI ĐÚNG CỦA BÌNH ĐẲNG
Công lý không tự nhiên mà có, không phải trên trời rơi xuống, công lý tới tự thâm tâm của con người yêu quý và mến trọng công lý: tâm lý vì công lý có trước hiện thực của công lý. Một tâm lý muốn tôn vinh công lý qua công bằng. Công bằng từ lao động tới quyền lợi, từ bổn phận tới trách nhiệm, từ phân phối tới phân chia của cải và công sức trong sinh hoạt xã hội. Trong xã hội công lý dựa trên công bằng này sinh ra lý thuyết luận công lý có mặt trong luật học và triết học, trong đó công pháp học không tách rời đạo đức học, để khẳng định thái độ chống lại các cá nhân lợi dụng cộng đồng, bóc lột tập thể, qua ăn bám, ăn lừa, ăn hại. Nếu chúng ta không dứt khoát trên quan điểm này thì chính các lực lượng ký sinh trùng sẽ tạo ra các bất công mới, làm trì trệ mọi thăng tiến của kinh tế, làm ngưng trệ mọi tiến hóa của xã hội. Nhưng nếu quý yêu công lý, mến trọng công bằng thì phải nhận ý tưởng giờ đã thành lý luận trong xã hội học chính trị: công bằng-và-công lý-để-công nhận cái đúng của bình đẳng. Cái đúng này công nhận “làm nhiều, ăn nhiều”, “làm nhiều, lương nhiều”, “làm nhiều, lợi nhiều”. Tức là chính thức công nhận việc “thức khuya dậy sớm”, “một nắng hai sương”, “dãi nắng dầm mưa” là phần thưởng xứng đáng trong thành công trong nghề nghiệp, trong thành đạt trong kinh tế, thành tựu trong xã hội.
CÔNG CỤ CHỐNG THAM QUAN, CÔNG DỤNG CHỐNG THAM QUYỀN
Tất cả các thành công-thành đạt-thành tựu này chính là thành quả của một cá nhân, của một gia đình, của một tập thể, của một cộng đồng, của một dân tộc, của một sắc tộc, của một văn hóa phải được hợp lý hóa để được chính thức hóa, phải được công lý hóa để được cơ chế hóa qua pháp luật. Vì đây là công bằng của công bằng. Trong tình hình hiện nay của Việt tộc, cái đúng của thành công-thành đạt-thành tựu-thành quả sẽ là công cụ chống tham quan, có công dụng chống tham quyền, phải thành công luật để chống tham nhũng, phải là công pháp để chống tham ô. Vì bọn tham quan-tham quyền-tham nhũng-tham ô trong xã hội Việt Nam hiện nay chúng vừa “ăn không ngồi rồi”, vừa “ăn trên ngồi trốc”, bản chất của chúng là: “cướp ngày là quan”, chúng không hề thiết tha tới “lao động sớm chiều”, không hề biết hệ vấn đề thành công-thành đạt-thành tựu-thành quả là chuyện “mồ hôi nước mắt” của kẻ lao động. Chúng chỉ biết trộm-cắp-cướp-giật, vơ vét để nuốt chửng tiền của nhân dân, tài nguyên của đất nước, sinh lực của đồng bào. Khi chúng ta tâm niệm câu của tổ tiên trong cái đúng của thành công-thành đạt-thành tựu-thành quả: “có làm thì mới có ăn”, thì bọn tham quan-tham quyền- tham nhũng-tham ô hiện nay -như ma bùn, ma xó- chúng làm ngược lại “không làm nhưng vẫn có ăn”, đây không phải là lỗi, mà là tội trước công lý, trước công pháp!
CÁI ĐÚNG PHẢI TỪ Ý THỨC ĐÚNG ĐỂ CÓ HÀNH ĐỘNG ĐÚNG
Có nguyên tắc chung để phân chia, trong đó chia đều, chia ngang hàng chưa chắc là công bằng, mà phải có pháp của luật, có đạo của lý, cái tốt trước hết phải là cái đúng, từ công tâm tới công trạng, từ công bằng tới công lý. Cái đúng phải từ ý thức đúng để có hành động đúng, từ đạo lý đúng tới luân lý đúng, mô phạm đúng để có mô hình đúng, để tạo ra cơ chế đúng trong một xã hội đúng. Một xã hội đúng là một xã hội tạo được sự hợp tác giữa các cá nhân, cùng lúc giới hạn được sự xung đột, tới từ vị kỷ, có từ tư lợi của các cá nhân đó. Cơ sở của cái đúng tạo ra được công bằng, được công lý công nhận là hợp pháp, vì vừa hợp lý, vì vừa đúng luật. Cái đúng không phải chính trị hóa cái tốt, nó càng không phải thần học hóa cái lành của các tôn giáo, nó cũng không phải là cái trúng của toán học. Mà nó tới từ thỏa hiệp qua thỏa thuận của một cộng đồng có ý thức từ ý niệm tới thực hiện hệ vấn đề công bằng trong những lãnh vực rộng nhất, sâu nhất trong các sinh hoạt xã hội. Cái đúng của công bằng phải được thể nghiệm, thực nghiệm, thực hiện trong đối thoại của đa nguyên để luôn tạo ra đa năng, đa hiệu, đa tài để bảo đảm. Như vậy, sẽ không có cái đúng trong một xã hội độc tài, độc quyền, độc trị tức là độc đảng, vì không có cái đúng nào chịu nằm yên thụ động trong một mô hình ý thức hệ, như nằm ngủ ngu dại trong một nhà tù tuyên truyền chính trị một chiều.
CÔNG PHÁP DỰA TRÊN CÔNG LÝ
Vì cá nhân ngày càng nhiều nhu cầu, tập thể ngày càng nhiều đòi hỏi, xã hội ngày càng nhiều dự phóng. Cầu tạo ra cung, mà nhu cầu con người thì có rồi lại muốn có thêm, có thêm rồi lại muốn có nhiều hơn. Cho nên, cái đúng đa dạng cần cái đa lực, đa chiều, đa dạng của đa nguyên. Cái đúng của chia đều, chia đồng theo phản xạ dễ dãi và vô trách nhiệm “cá mè một lứa” không hề là cái đúng được định vị bởi quyền lợi cá nhân, bởi tư lợi. Nhưng cái đúng của tư lợi phải được dựa vào một cái lý đúng, hoặc nhiều cái lý đúng, để làm tiền đề cho công bằng phải luôn dựa vào một cái lý công bằng đúng, hoặc nhiều cái lý công bằng đúng, trong đó nhu cầu mới sẽ sinh ra cái lý mới để tạo ra một loại công bằng mới. Công pháp phải có nền dựa trên công lý, công lý phải có gốc trong công bằng. Công bằng có công hành trong chia đều để tránh bất công, nhưng cũng phải giữ thế thăng bằng, trong đó công và quả phải được phân định rõ ràng, công nào của nấy phải được tôn trọng để tránh bất công. Cụ thể tránh ăn bám, tránh ăn nhờ, tránh ăn xin, để tránh chính thức hóa, tránh công pháp hóa chuyện biếng nhát, làm cho kẻ biếng lười được hưởng công lao của kẻ lao công. Chống lại chuyện sống thản nhiên trong kiếp ký sinh trùng, bắt xã hội phục dịch mình, bó nhân quần phục vụ nhu cầu riêng tư của mình.
MUỐN ĐÚNG TRONG NHÂN LOẠI THÌ PHẢI TRÚNG TRONG NHÂN SINH
Từ công lao qua công lý luôn là nỗi thao thức của nhân tri, luôn là nỗi đau đáu của nhân trí, để có được một xã hội mà không ai bỏ rơi ai, nhưng phải là một xã hội có công pháp, không ai được bóc lột ai! Như vậy công bằng phải đi tìm chỗ dựa là công tâm. Mặc dù công bằng đã từ phạm trù của luân lý đã vào sâu trong phạm trù của công pháp, mà triết học chính trị đã biến nó thành hải đăng của công pháp để tìm đường đi đúng cho nhân loại. Nhưng muốn trúng và đúng thì không được quên lý và tính trong công tâm! Nhưng muốn đúng trong nhân loại thì phải trúng trong nhân sinh. Trong lý thuyết luận về công lý, Rawls đề nghị lấy cái trúng (về lượng lẫn phẩm) để làm chỗ dựa cho cái đúng, khi đã có cái trúng đẩy cái đúng, thì lúc đó mới có thể nói tới cái lành (đúng về quyền lợi, trúng về trách nhiệm). Chính cái lành làm sáng cái tốt qua đạo lý lấy đoàn kết để tạo ra tương trợ, lấy cả hai đoàn kết để và tương trợ để loại đi cái ích kỷ; bỏ vị kỷ để nhận vị tha, từ giáo dục tới tổ chức cơ chế, từ phân phối của cải trong xã hội tới tổ chức từ thiện trong sinh hoạt xã hội. Cụ thể là đưa công bằng vào công lý, đẩy công lý vào công pháp, trao công pháp để nhận công tâm trong tất cả quan hệ xã hội.
CÔNG QUYỀN QUA TAM QUYỀN PHÂN LẬP
Công bằng qua công lý để đến công quyền, chúng ta phải trở lại định nghĩa của đạo lý giữ cho bằng được những cái hay, đẹp, tốt, lành để tạo ra luân lý biến mô phạm thành mô hình của trách nhiệm và bổn phận giữa cá nhân, gia đình, tập thể, cộng đồng, dân tộc, xã hội, nhân loại. Công bằng qua công lý trong đó mọi quyền lợi của cá nhân, cũng như trách nhiệm và bổn phận của cá nhân đó đối với gia đình, tập thể, cộng đồng, dân tộc, xã hội, nhân loại phải được cụ thể hóa qua luật pháp, hợp thức hóa qua hành chính, công khai hóa qua cơ chế, trong đó pháp quyền bảo vệ luật pháp, bảo trì hành chính, bảo hành cơ chế, để định vị công quyền. Công quyền qua tam quyền phân lập, trong đó tư pháp đại diện cho công bằng qua công lý, không bị hành pháp khống chế, không bị lập pháp thao túng. Trong khi đó với chế độ độc đảng, tạo ra độc tài đã nô lệ hóa tư pháp, sinh ra độc trị, đã vô hiệu hóa phương trình công bằng- công lý, luôn là gốc, rễ, cội, nguồn cho một cơ chế pháp quyền, được xây dựng trên công quyền. Công quyền qua cơ chế pháp quyền luôn là chỗ dựa và cũng là sức bật của công bằng qua công lý; chính nhờ các cơ chế pháp quyền mà công bằng qua công lý đã trở thành công bằng bằng công lý, trong đó cơ chế được luật pháp bảo trợ biến công bằng bằng công lý thành giá trị cốt lõi trong quan hệ giữa người và người luôn cần bảo vệ.
GIÁ TRỊ CỦA CÔNG LÝ, GIÁ TRỊ CỦA LUÂN LÝ
Giá trị này luôn là giá trị đôi: giá trị của công lý (có nền là luật pháp), và là giá trị của luân lý (có cội là đạo lý), chính giá trị này biến mong muốn của nhân sinh thành ý nguyện của nhân tính, tạo ra ước nguyền của các thế hệ, và làm cầu nối giữa hiện tại và tương lai, vì cuộc sống thật sự đáng sống khi nó có công bằng, nhân tình thật sự đáng tin khi nó có công lý. Nhưng đạo lý của hay, đẹp, tốt, lành phải hợp lý để trở thành hợp pháp không những phải qua công lý mà còn phải qua các cơ chế pháp quyền của công quyền. Bi kịch của Việt tộc hiện nay, dưới quyền chỉ đạo của của ĐCSVN qua độc đảng-độc tài-độc quyền-độc trị là vở hài kịch của tư pháp -như một loại công quyền giả, mạo danh- đang làm lao nô cho ĐCSVN, trong một xã hội mà lãnh đạo của ĐCSVN vừa được ra luật cùng lúc được lách luật, vừa được đổi luật cùng lúc vừa được xé luật! Công bằng luôn được tính toán qua công lợi, mà công lợi không thể thuyết phục được, nếu không định vị đúng thế nào là tư lợi (như quyền lợi của cá nhân trong xã hội). Ở đây, nguyên tắc phân chia quyền lợi qua công bằng được bảo trợ bởi công lý, phân phối tư lợi qua luật pháp được công nhận bởi công quyền.
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).