Giải Luận: Quyền Lực (P5)

HÙNG LỰC ĐẤU TRANH VÌ NHÂN QUYỀN
Câu chuyện về nhân quyền là tự truyện về mức độ làm nên trình độ: khi ta có bác ái với lòng trắc ẩn chia ngọt sẻ bùi với tha nhân, chia sẻ niềm đau nỗi khổ với đồng bào, với đồng loại thì chữ nhân của nhân loại hoặc nhân loài sẽ có được tầm vóc cao, kích thước rộng, nội công mạnh, bản lĩnh lớn hơn hẳn ích kỷ, vị kỷ, tư lợi, tư hữu…. Vì kẻ chỉ biết ích kỷ, vị kỷ, tư lợi, tư hữu thì có thể làm người nhưng chưa chắc đã được làm: nhân, mà nhân đây có gốc rễ, cội, nguồn của nhân tâm, nhân từ, nhân đạo, nhân nghĩa, nhân bản làm nên sung lực trong lý luận rồi hùng lực ngay trong đấu tranh vì nhân quyền. Tại đây, nhân quyết là không gian tri thức trong đó có chủ quyết để chủ động đấu tranh vì công bằng mà chống bất công, nên nhân quyền, vừa là hành động của hiện tại, vừa là hoài bão của tương lai; vừa là quy trình đấu tranh hằng ngày, vừa là chân trời trước mắt.
TOÀN TRỊ TRONG ĐỘC TRỊ ĐỂ PHỤC VỤ CÂU CHUYỆN CON NGƯỜI TIÊU DIỆT CON NGƯỜI
Trong lịch sử nhân loại từ khi con người vào kỷ nguyên công nghiệp với sự bóc lột trắng trợn sức lao động của công nhân, nông dân… một kỷ nguyên xem con người là công cụ, là vật liệu, là hàng hóa để tạo sản xuất, để tăng năng suất. Sự xuất hiện của hai thế chiến trong thế kỷ XX vừa qua, càng làm sự bóc lột trắng trợn sức lao động của con người trở nên nhờm tởm với quá trình biến xã hội thành một nhà máy khổng lồ để phục vụ chiến tranh, để phục vụ chuyện con người tiêu diệt con người, để nhân sinh tự tiêu diệt, đưa nhân loại vào tử lộ. Các khẩu hiệu “Tổng động viên” làm nên khẩu lệnh “Tất cả vì tiền tuyến” để tiêu diệt đối phương, giờ không những đã là kẻ thù mà đã trở thành tử thù, “không đội trời chung”, loại luận điệu này thì người Việt nghe rất quen tai. Đây cũng chính là thảm họa của Việt tộc, chỉ cần một nhúm người Cộng Sản mang một ý thức hệ ngoại lai đấu tranh giai cấp bằng chuyên chính vô sản dưới lá cờ chống thực dân rồi chống đế quốc vì độc lập dân tộc, để đưa Việt tộc từ tà lộ mệnh danh “cách mạng”, với biệt danh “giải phóng”, tới tử lộ của huynh đệ tương tàn, với nhiều triệu sinh mạng của đồng bào bị thí mạng như những công cụ vô tri.
ĐỊA NGỤC HIỆN TIỀN
Ngoài sự mất mát quá lớn về tính mạng của đồng bào mà Phật đạo của dân tộc gọi chính danh là: sinh linh, mọi sinh vật đều thiêng liêng vì linh thiêng bằng chính sự sống của nó. Không chỉ sự mất mát về tính mạng, mà còn sự mất trọn tất cả các giáo lý tổ tiên Việt về tương thân tương trợ, song hành cùng sự mất trắng tất cả các tiềm năng phát triển đất nước, để đưa dân tộc vào quỹ đạo của tiến bộ, để đi về hướng một xã hội có văn minh của dân chủ, có văn hiến của nhân quyền. Sau chuỗi mất mát-mất trọn-mất trắng hiển hiện trước mắt mọi công dân Việt là địa ngục hiện tiền, với hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc trị, độc tôn) của ĐCSVN sinh đôi với hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền) cũng của chính nó.
NHÂN LÝ VÌ NHÂN QUYỀN
Nhân lý vì nhân quyền không hề là lý lẽ của tính toán thương mại, tự xem tha nhân như công cụ để mình làm giầu. Nhân lý không hề là con toán của cân, đo, đong, đếm giữa hợp tác quốc tế và tư lợi của riêng một đảng cầm quyền. Ngược lại, nhân lý có nhân lộ là niềm tin về công bằng vì nhân quyền, để vững tin về công lý biết bảo vệ nhân phẩm. Không có niềm tin để vững tin thì sẽ đánh mất chính giá trị nhân quyền của mình và của đồng loại. Nhận thức của nhân lý vì nhân quyền chuyển tải các nguyên tắc chủ lực của nguyên tắc của nhân lý vì nhân quyền có chính danh khi dùng công lý bảo vệ nhân phẩm qua nhân lộ của nhân quyền. Nguyên tắc của nhân lý vì nhân quyền vượt thoát thần quyền trên số phận con người nhưng vẫn tôn trọng tôn giáo. Nguyên tắc của nhân lý vận dụng nhân quyền để bảo vệ tự do cá nhân, nơi mà mỗi cá nhân có nhân quyền trọn vẹn, và không là nạn nhân của gia đình, thân tộc, tập thể, cộng đồng nhất là của các bạo quyền đe dọa, đàn áp, tra tấn, hãm hại cá nhân.
NHÂN QUYỀN ĐẶT NHÂN PHẨM LÊN CAO
Nhân lý vì nhân quyền luôn đi xa, lên cao, nới rộng, vào sâu về quyền làm người bằng chính nhân vị, trong đó cá nhân, gia đình, thân tộc, tập thể, cộng đồng, yêu cầu xã hội phải bảo vệ nhân phẩm của mình. Từ đây xuất hiện quan hệ giữa nhân lý vì nhân quyền, cấu trúc quyền lực và tổ chức xã hội của một quốc gia, một dân tộc. Một chính quyền liêm chính là một chính quyền nhận quyền lực phục vụ nhân quyền để bảo đảm nhân phẩm cho các công dân của mình. Một tổ chức xã hội có nhân lý biết lấy nhân quyền làm gốc, rễ, cội, nguồn cho mọi quan hệ xã hội, sinh hoạt xã hội, đời sống xã hội. Như vậy, nhân lý vì nhân quyền đặt nhân phẩm lên cao, và đặt đúng chỗ thần quyền trong không gian tôn giáo, đưa nhân vị của tự do cá nhân vào nhân lộ của nhân quyền, cùng lúc nhân lý vì nhân quyền đặt nền cho quan niệm chính đáng trong liêm chính của không gian quyền lực, nơi mà chính tổ chức xã hội cũng phải dựa trên nhân quyền để tồn tại trong chính danh.
CÔNG NHẬN CÔNG BẰNG
Dân chủ bắt đầu bằng sự công nhận công bằng không những trên những chuyện đã có mà luôn cho những chuyện đang có trong hiện tại của dân tộc, và sẽ có trong tương lai của quốc gia, trong đó công bằng xã hội được bảo đảm bởi công lý làm nên công luật, tất cả được thảo luận bằng hội thoại qua đối thoại bằng luân lý với sự trợ lực của pháp luật. Khi hội thoại qua đối thoại, dân chủ chấp nhận và cho phát biểu để pháp triển sự khác biệt, tính đối kháng, tính nghịch lý để mở cửa rồi mở đường cho sự mâu thuẫn hoàn toàn chính danh vì chỉnh lý trong dân chủ để thực hiện đa nguyên, qua đa quyền lợi, đa giải đáp, đa chọn lựa… bằng quyết định bỏ phiếu, nơi mà thiểu số phục tùng đa số. Tại đây, dân chủ có những định chế rõ ràng để thực hiện sức thông minh của nhân trí bằng sự tôn trọng lẫn nhau của nhân tri. Hội trường và nghị trường để hội tụ trong nghị luận các vấn đề không những phải làm trong hiện tại và cần làm trong tương lai. Hội trường và nghị trường để hội lý trên nền tảng của công bằng từ đề nghị tới thảo luận, từ quyết định tới hành động.
Hội trường và nghị trường để hội luận trên sự phân biệt công ích và tư hữu, để phân loại quyền lợi và quyền hạn, để phân định lợi ích xã hội và tự do cá nhân.
DIỄN LUẬN ĐỂ THUYẾT PHỤC
Khi nghiên cứu về lịch sử của dân chủ có nguồn cội trên quê hương Hy Lạp là chiếc nôi của triết học về nhân quyền, có triết lý về nhân sinh, có triết luận về chính thể, thì hai chuyên gia về cổ sử, cổ triết của Hy Lạp đã giúp ta nhận ra tiến trình và tiến hóa của dân chủ với kinh nghiệm dân chủ Hy Lạp trên cho ta thấy nội chất của dân chủ không phải là quyền mà là lý: lý luận để thuyết minh, lập luận để thuyết trình, giải luận để thuyết giảng, diễn luận để thuyết phục. Đây là cách xử lý hoàn toàn khác và ngược với hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn) lấy lực làm quyền, gạt lý để giữ quyền, rồi lấy quyền triệt luận, cầm quyền này để diệt quyền kia, nên cả vú lấp miệng em không có thảo luận, cá lớn nuốt cá bé không có hội luận, mạnh được yếu thua không có tụ luận. Nên hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn) không có văn hóa của dân chủ qua thảo luận, văn minh của đa nguyên qua hội luận, văn hiến của nhân quyền qua tụ luận, vì bộ ba này của dân chủ biết chấp nhận nghịch lý vì biết tôn trọng đa lý. Khi ta nhận định dân chủ, đa nguyên, nhân quyền chính là văn hóa, văn minh, văn hiến thì ta sẽ hiểu vai trò của của bộ ba này trong giáo dục xã hội, trong giáo khoa quần chúng, trong giáo trình học đường để giáo dưỡng ngay từ tuổi nhỏ ba liên minh này: dân chủ, đa nguyên, nhân quyền chống bạo quyền, văn hóa, văn minh, văn hiến chống cuồng quyền, giáo dục, giáo khoa, giáo trình chống cực quyền.
QUYỀN ĐƯỢC LÀM NGƯỜI
Một chế độ đẩy xã hội bị rơi vào nhân biệt: sự phân biệt giữa người với người, giữa đồng bào với nhau, vì lãnh đạo của chế độ độc đảng đã đi trên tà lộ chống nhân quyền! Vì nhân quyền luôn là nền để tạo nên sự công bằng giữa các cá nhân. Công bằng này không chấp nhận sự khác biệt để làm ra sự tách biệt, để dân tộc phải gánh chịu: sự phân biệt, kẻ giàu ở trên người nghèo ở dưới; sự phân loại, kẻ gian giàu bóc lột người lành nghèo; sự phân hóa, kẻ gian mạnh tha hóa người nghèo yếu; sự phân cực, kẻ gian mạnh đàn áp người nghèo yếu. Khi chính trị học, xã hội học và triết học cùng nhau phân tích về bất công tạo ra bất bình đẳng, thì luật học đã có mặt cùng công pháp quốc tế được Liên Hiệp Quốc bảo trợ nơi đây nhân quyền là quyền được làm người mà không là nạn nhân, cũng không là thủ phạm của bất cứ bất công nào, của bất cứ bất nhân thất đức nào. Quyền được làm người với nội chất của nhân phẩm, khi công lý biết giới hạn ích kỷ, vị kỷ, tư lợi, tư hữu, vì giá trị của nhân quyền là vô giá, nó cao, sâu, xa, rộng hơn phạm trù bình thường -nếu không nói là tầm thường- của ích kỷ, vị kỷ, tư lợi, tư hữu…. Quyền được làm người chính là sức mạnh của hoài bão vì nhân lý, nhân tri, nhân trí, của hoài vọng vì nhân bản, nhân văn, nhân vị, tạo ra được tính thuyết phục làm nên sự đồng cảm, đồng lòng để cùng nhau bảo vệ giá trị của nhân phẩm.

Giải Luận: Quyền Lực (P6)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).

 

Bình luận về bài viết này