VÔ HỌC RẤT THẤM NÊN VÔ HẬU RẤT “CHÀM”
Vô học rất thấm nên vô hậu rất “chàm”, khi mọi người biết là tất cả các lãnh đạo trong chính phủ hiện nay của hệ thống vô học trị, thì từ thủ tướng tới các bộ trưởng, không có lãnh đạo nào tự viết được các tham luận mà họ phải đọc trước quần chúng, trước quốc hội, trước truyền hình; nhất là trước các hội thảo, hội luận, hội nghị mà hội trường là những nhân sĩ có học, nên ta thường thấy các lãnh đạo này phải cầm giấy mà đọc những câu chữ mà họ không phải là tác giả. Không là tác giả của bài tham luận của mình, lại vừa chưa hề biết tác giả nào, tác phẩm nào trong học thuật và trí thức của nhân loại. Đây không phải là vô học trống chữ sinh ra vô hậu đọc nhại những chuyện mà mình không phải là tác giả thì còn là gì nữa?
VÔ TRƯƠNG BẤT TÍN
Từ thủ tướng tới các bộ trưởng khi bị ký giả, phóng viên, truyền hình trực tiếp hỏi những lý luận làm ra chính sách, những lập luận làm ra quyết sách của chính phủ, thì chỉ từ 3 câu tới 5 câu hỏi của báo chí là ngữ vựng của lãnh tụ bị lộn âm, ngữ văn của lãnh đạo bị lộn ngôn, ngữ pháp của các đầu lãnh bị lộn ngữ. Vô trương bất tín, không thấy thì không tin, thấy rồi mới tin, và tai nghe mặt thấy để thấu cái thực chất vô học đã làm nên các vô nghệ trong lãnh đạo, vô nghề trong quản lý, vô nghiệp trong chính nghĩa. Từ thủ tướng tới các bộ trưởng, không có lãnh đạo nào dám đối diện với trí thức để tranh luận, đối thoại với chuyên gia để trao luận, đối thuyết với các lãnh đạo quốc tế của các quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hóa nhân quyền để cân, đo, đong, đếm từ tri thức tới tri lực, để so ra mới biết ngắn dài. Vì chuyện lãnh đạo từ quản trị tới quản lý, từ các quyết sách công ích xã hội tới các chính sách an sinh xã hội, tất cả đều là chuyện trình độ học thức, mà trình độ thì học thật sẽ lột đươc mặt nạ của học giả, và học lực sẽ vạch mặt chỉ tên học gian, học dối! Và cái vô hậu vắng nhân tri, trống nhân trí, rỗng nhân lý sẽ bị lột trần lên bờ xuống ruộng trước học thuật.
VÔ HỌC RẤT LẬU NÊN VÔ HẬU RẤT NẨU
Vô học rất lậu nên vô hậu rất nẩu, không có kiến thức chuyên môn nhưng lại cứ giành đi hội nghị quốc tế, không có tri thức chuyên khoa nhưng lại cứ đòi đi hội thảo quốc ngoại, không có trí thức chuyên ngành nhưng lại cứ ham đi hội luận toàn cầu, từ đây lòi ra bao nhiêu hậu quả của vô học, bao nhiêu hệ lụy của vô hậu. Một lãnh đạo đi ra nước ngoài kéo theo một thư ký, một trợ lý, một thông dịch viên, thành một phái đoàn có khi là 3, có khi là 5, có lúc là 7, thậm chí là 10. Từ khách sạn tới nhà hàng, từ chi tiêu tập thể tới chi phí hàng không cho cả đoàn, đi một, hai, ba tuần, gây tốn kém lên hàng bạc tỷ, với số tiền đó có thể chính phủ nuôi ăn hàng tháng được hẳn một xóm nghèo, môt làng nghèo. Một lãnh đạo kéo theo 3, có khi là 5, có lúc là 7 người, lại còn cho vợ con đi theo. Sáng vào hội trường để “giả danh hội nghị”, “giả dạng hội thảo”, “giả tướng hội luận”, nhưng sau cơm bữa trưa là nhờ vả đường dây Việt kiều tại chỗ để đi shopping, đi siêu thị, tha hồ mà mua sắm từ mỹ phẩm tới thực phẩm của các xứ Tây. Mà hóa đơn không rõ là tiền của cá nhân, của gia đình hay moi móc thẳng ra từ chi phí công vụ, tức là từ tiền thuế của dân lành, dân đen….
VÔ HỌC RẤT THÔ NÊN VÔ HẬU RẤT LỘ
Một lãnh đạo của ĐCSVN kéo theo cả đàn, cả đám, cả nhà tới xứ người, sau khi du lịch bằng công vụ, đi chơi cho thỏa, đến khi về lại quê nhà, thì đồng nghiệp hỏi về những đóng góp chuyên môn trong hội thảo; đồng bào tra về những đóng góp chuyên ngành trong hội nghị. Thì “vỡ lẽ” ra là không có báo cáo chuyên đề, không có tổng kết chuyên môn, không có một chứng thư, một chứng tích nào thuyết phục cho sự thành công của các chuyến công vụ. Mà cũng biết thực chất là du lịch, phung phí vô học, phung phá vô hậu trên tài sản của đất nước, trên mồ hôi của dân chúng. Vô học rất thô nên vô hậu rất lộ, từ thực tập sinh tới học một, hai năm tới sinh viên du học từ cao học tới tiến sĩ được học nhiều năm tại các quốc gia phương Tây có tiến bộ khoa học, có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền, lại có sáng tạo sinh động và sinh hoạt sôi động từ văn hóa tới nghệ thuật. Tại đây, các khuyết điểm vô học, các khuyết tật vô hậu từ kiến thức tới tri thức lộ ra ngay trong phản xạ hằng ngày, ngay trong phản ứng hằng tuần, hằng tháng, hằng năm trong xã hội phương Tây.
TẦM VÓC VĂN MINH LÀM NÊN VAI VÓC VĂN HIẾN
Các thực tập sinh, các sinh viên du học không biết gì vì không muốn học hỏi thêm về văn hóa qua nghệ thuật, văn minh qua khoa học, văn hiến qua sử học của các quốc gia tiên tiến phương Tây. Mà muốn biết thì phải học, muốn học thì phải tới thư viện của đại học, của thành phố, của văn khố quốc gia, trung tâm tư liệu chuyên ngành…. Họ không làm vì không muốn biết thêm về gốc, rễ, cội nguồn từ văn minh tới văn hóa các quốc gia này. Các thực tập sinh, các sinh viên du học không biết gì vì không đọc gì về các tác phẩm của các tác giả đã làm nên văn học, thi ca, âm nhạc, hội họa, kịch thuật, điện ảnh… và khi được đồng nghiệp, đồng bào hỏi về các tác phẩm của các tác giả, thì thường là họ “tảng lờ”, chỉ vì họ không biết, chỉ vì họ không chịu học. Các thực tập sinh, các sinh viên du học không biết gì về các bảo tàng, các cuộc triển lãm, các buổi hòa nhạc, các lễ hội văn hóa… của các quốc gia phương Tây nơi họ đang học… và khi được đồng nghiệp, đồng bào hỏi về các sự kiện văn hóa, các sự cố nghệ thuật làm nên tầm vóc văn minh, làm nên vai vóc văn hiến của các quốc gia phương Tây, thì thường là họ “đánh trống lảng” chỉ vì không biết, mà không biết vì không chịu học.
THỰC TÀI CHỐNG BẤT TÀI
Chính trị học tri thức phối hợp cùng xã hội học nhận thức đã phân tích để phân loại, đã phân định để phân giải là khi hai người bất tài trong một hội đồng phải bầu cho một thí sinh thay thế họ trong tương lai thì họ không thể bầu được một thí sinh có tài; ở đây bất tài không đủ năng lực lẫn thông minh để bầu cho thực tài. Khi hai người trong một hội đồng; một người bất tài, một người có tài phải bầu cho một thí sinh thay thế họ trong tương lai thì họ khó có thể bầu được một thí sinh có tài; ở đây người có tài chưa chắc thuyết phục được người bất tài, vì kẻ bất tài vừa không đủ năng lực lẫn thông minh, lại vừa lo sợ hai kẻ có tài, một là đồng nghiệp hai là thí sinh khinh chê cái bất tài của mình. Khi hai người trong một hội đồng; cả hai đều có tài, cũng có khi họ bầu cho một người thiếu tài nhưng trung thành với họ để bảo vệ đặc quyền, đặc lợi, đặc ân của họ sau khi họ ra đi. Mà còn có khi hai kẻ có tài cũng có thể bầu cho một kẻ hoàn toàn bất tài để hai kẻ có tài này tiếp tục thao túng, o ép, giật dây thí sinh bất tài nhưng “dễ bảo trước đàn cha”, “biết tuân lệnh đàn chú”, “biết phục tùng đàn anh” ….
VÔ HỌC ẨN NẤP TRONG TÀ TRI, VÔ HẬU LUỒN LÁCH TRONG ĐIẾM TRÍ!
Đưa thực tài vào định chế, đón chân tài vào cơ chế, nhận nhân tài vào cấp lãnh đạo là một quá trình thiên sơn vạn thủy trong nhân tri, là một quy trình vượt suối trèo đèo trong nhân trí. Tại đây, thì bạo quyền độc đảng, tà quyền tham nhũng, ma quyền tham tiền chỉ biết dựa vào quan hệ-hậu duệ-tiền tệ để diệt trí tuệ; để tổ chức mua chức bán quyền qua mua bằng bán cấp của học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả. Cũng tại đây, độc đảng trong độc quyền sử dụng nền của tuyên truyền trị để mạo danh hồng hơn chuyên mà chọn cán bộ nguồn; vận dụng gốc của ngu dân trị với mạo dạng lãnh đạo nòng cốt để dựng lên các thái tử đảng; tận dụng rễ của vô học trị để mạo dạng: “con lãnh đạo mà lãnh đạo là hồng phúc cho dân tộc”, một tuyên bố vô cùng vô học vì nó vô tận trong vô hậu của một bà đã là lãnh đạo trong Uỷ Ban Nhân Dân thành Hồ. Từ đây, mới có hiện tượng vô học trong tà kiến, vô hậu trong tà luận, thí dụ dễ-thấy-vì-khó-nghe như hiện tượng tiến sĩ lu (dùng lu chống lụt cho thành Hồ), tiến sĩ lon (đọc chữ lon “lộn” ra một chữ được xem là tục trong truyền thông), thứ trưởng của Bộ (vô) Văn Hóa (đã trao tặng một người phụ nữ chuyên nghề hầu đồng chức hiệu nữ hoàng tâm linh). Vô học ẩn nấp trong tà tri, vô hậu luồn lách trong điếm trí!
CÁI TÔI BỊ BẮT BUỘC CHỌN TỰ DO
Với bạo quyền độc tài nhưng bất tài, tà quyền độc trị nhưng không biết quản trị, ma quyền chỉ là âm binh chui luồn trong bóng tối ngu dân. Bọn cá mè một lứa này không bao giờ tự kiểm tra khách quan về chúng bằng cân, đo, đong, đếm thực tài của chúng; không bao giờ tự kiểm định khoa học của chúng bằng so ra mới biết ngắn dài về trí tuệ của chúng. Khi đấu tranh chống bạo quyền, tà quyền, ma quyền, dù ở nơi đâu, trong bất cứ giới nào, tôi luôn tự nguyện với lòng là cho tới chết không bao giờ là người của bè, của đảng, của nhóm, của phái, của đám, mà là người của tự do đi tìm tự chủ, theo mô thức của: «cái tôi bị bắt buộc chọn tự do» như đi nhận nhân cách để lấy lại nhân vị cho chính mình. Nói gần nói xa không qua nói thật là cùng với sự bất nhẫn đưa tới phẫn nộ mỗi lần tôi phải đụng độ để trực diện mà đấu tranh chống bất công, tôi thường sống với tâm lý có liên quan trực tiếp tới thể lực của mình. Cụ thể là một sự khinh bỉ tới lợm giọng, có thể dẫn tới buồn nôn khi phải trực diện với các cá nhân đã biến chính quyền thành bạo quyền, tà quyền, ma quyền, mà trong mô thức giải luận về quyền lực, tôi phải gọi chúng là: âm binh!
NHÂN TRI KHẲNG ĐỊNH NHÂN VỊ
Đối với bọn lừa thầy phản bạn, với đám mua bằng bán cấp, với lũ mua chức bán quyền, với phái buôn dân bán nước, với đảng phản dân hại nước thì sao? Lại còn dễ nữa, bạn nhớ đứng thẳng ngay bữa tiệc, đi ngay ra ngoài với mắt thẳng, vai ngay, lưng chắc, chân vững, bước mạnh, mà không quên chào chủ nhà, nhất là không quên tự nhắc với lòng là phải rời ngay chốn âm binh mại quốc cầu vinh để được về lại ngay với cõi người là yêu nước thương nòi. Chính nhân tri khẳng định nhân vị của mọi người, khi con người biết đấu tranh vì nhân quyền để bảo vệ nhân phẩm của họ, thì họ khám phá ra nhân bản và nhân văn của họ tới từ nhân tính biết tôn trọng đồng loại, từ nhân lý biết bảo vệ tha nhân.
NHÂN DIỆN VÀ NHÂN DẠNG CỦA NHÂN QUYỀN
Khi trong nhân phẩm có sẵn hai quyền lực làm nên nội chất của nhân quyền: nhân quyền tích cực của có trong hoài bão đi tìm công bằng để lập nên công lý, và nhân quyền tiêu cực của không trong sự chối từ bất công, chối bỏ bất nhân thất đức? Từ đây, chúng ta nhận ra được là có của tích cực vì hoài bão, và không của tiêu cực chối từ bất công, tương tác lẫn nhau, hỗ trợ và bổ sung cho nhau trên nhân lộ đi tìm nhân phẩm bằng đấu tranh vì nhân quyền. Hãy đi xa hơn nữa để nhận ra chân dung diện mạo của nhân quyền có trong năng lượng đôi làm nên năng lực đôi: biết trả lời có trước công lý vì đã biết trả lời không trước bất công trong nhân kiếp; sẵn sàng trả lời có! để đấu tranh vì công lý, và luôn sẵn sàng trả lời không! để tranh đấu chống bất công. Hãy lên cao hơn nữa để nhận rõ nhân diện và nhân dạng của nhân quyền, luôn vượt lên tư lợi, luôn vượt qua quyền lợi để nhập nội vào phạm trù của bác ái, có tương thân, tương trợ. Nơi mà hạt muối cắn làm đôi có khả thi với một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ, trong khả tín của bầu ơi thương lấy bí cùng, để lộ ra nhân diện của nhân quyền trong thương người như thể thương thân, để ta nhận ra nhân dạng của nhân quyền qua máu chảy tới đâu ruột đau tới đó. Khi ta công nhận là nhân quyền có chỗ đứng cao hơn, có ghế ngồi rộng hơn ích kỷ, vị kỷ, tư lợi, tư hữu… vì trong thực tế nhân quyền có khả quyết để quyết đoán, rồi có chủ đoán để chủ động là nhân quyền cao và rộng hơn ích kỷ, vị kỷ, tư lợi, tư hữu….
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).